giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng thương mại cổ phần đại á chi nhánh quang vinh - Pdf 14




1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế
đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam (VN),
hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị
thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế đất nước. Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bắt đầu từ
sự sụp đổ của chương trình cho vay thứ cấp của một số ngân hàng, kéo theo hàng loạt
các ngân hàng khác. Điển hình là Ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ sau 158 năm
tồn tại, Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm, America Internationnal
Group (viết tắt là AIG) tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán
do những khoản thua lỗ liên quan đến nợ cầm cố. Hậu quả là ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế thế giới [11]. Sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới – Word
Trade Oganization (viết tắt là WTO), Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế, thì việc bị ảnh hưởng là điều tất yếu. Hội nhập quốc tế đã đưa
Việt Nam đến gần với thế giới hơn và ngày càng có chỗ đứng trên trường quốc tế, nền
kinh tế của Việt Nam đã có được sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực nhưng bên
cạnh đó cũng đem đến nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta. Chính
quá trình đó đã gây áp lực đối với các doanh nghiệp cần phải củng cố tiềm lực, tìm
kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường để chuẩn bị bước vào một cuộc
cạnh tranh mới [12], đặt ra cho các doanh nghiệp VN, đặc biệt là các ngân hàng
thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín
dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt
cơ hội đòi hỏi các NHTMVN phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của
mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển
phù hợp với xu thế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.[11]

Từ nhận định trên, em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng và
nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” để làm nội dung cho báo cáo
nghiên cứu khoa học của mình.
2. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI.
Trên thế giới có rất nhiều các công trình nghiên cứu về kinh tế nhưng trong đó
nổi bật nhất có lẽ là mô hình lý thuyết của Arrow - Debreu về thị trường cạnh tranh
2
hoàn hảo. Nhưng dường như nó đã không còn thích hợp trong việc giải thích tính chất
phức tạp của bất kỳ thị trường hiện đại nào nữa. Do tính chất bất hoàn hảo của thị
trường mà đặc điểm nổi bật đó là sự bất hoàn hảo về thông tin và sự tồn tại của chi
phí giao dịch (transaction cost), nên vấn đề tiếp cận vốn của các doanh nghiệp luôn bị
hạn chế. Tình trạng trên trầm trọng hơn đối với các nước đang phát triển, nơi mà hệ
thống tài chính thường không theo kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Các hệ
thống tài chính này thường không đáp ứng được yêu cầu kết nối giữa những người
tiết kiệm và những người cần vốn. Cũng như không tạo ra được nhiều sản phẩm tài
chính nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng về rủi ro khác nhau của các chủ thể tiết
kiệm và đầu tư. Sự yếu kém của hệ thống tài chính làm cho các hộ gia đình không thể
đạt được mức độ mong muốn trong việc đưa ra các quyết định về việc phân bổ tiêu
dùng hiện tại và tương lai, và do đó giảm lợi ích so với điều kiện có thể. Không tiếp
cận được các nguồn vốn, các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế quan trọng của nền kinh
tế, không thể đầu tư vào các quá trình sản xuất và làm cho tổng cầu thấp hơn so với
tiềm năng của nó. Ngoài ra, các doanh nghiệp không thể sản xuất với sản lượng mong
muốn (và do đó sử dụng lao động) với từng mức giá cả (và lãi suất) trong nền kinh tế,
gây ra sự sút giảm tổng cung. Nếu chúng ta nhìn vấn đề trên dưới góc độ của một
hàm sản xuất truyền thống thì sự yếu kém của hệ thống tài chính ảnh hưởng xấu tới
sự tăng trưởng kinh tế thông qua tác động làm giảm quá trình tích luỹ vốn và làm
chậm tiến trình phát triển của khoa học công nghệ (Levin 1997).[17]
Hay vấn đề về sự bất cân xứng về thông tin mà tác động của nó có thể là sự lựa
chọn xấu (adverse selection) và sự suy giảm về đạo đức (moral hazard) ảnh hưởng tới

mình cũng như đưa ra các giải pháp kinh doanh, nâng cao chất lượng tín dụng một
cách hiệu quả hơn.
Tại tỉnh Đồng Nai, một trong những tỉnh năng động và được xem là có nền kinh
tế phát triển của quốc gia, hoạt động kinh tế ở đây diễn ra khá sôi động, nhất là hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh [8]. Vì vậy, UBND
tỉnh Đồng Nai đã nghiên cứu vào đề ra những chiến lược, chỉ tiêu để tăng năng lực
cạnh tranh, đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô tín dụng
của các ngân hàng thương mại trong địa bàn tỉnh [9]. Tuy nhiên, bên cạnh các mục
tiêu, định hướng mà tỉnh đề ra thì hầu hết các ngân hàng đều tự tìm ra những chiến
lược cạnh tranh riêng, những hướng đi, những giải pháp cho riêng mình và bảo mật
các ý tưởng này cho đến khi được thực hiện để có thể cạnh tranh lành mạnh với các
đối thủ trong cũng như ngoài tỉnh, đảm bảo cho sự phát triển bền vững thương hiệu
của mình [10].
4
Qua tìm hiểu về các công trình nghiên cứu trước đây cho thấy đã có nhiều đề
tài đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tại các
đơn vị Ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và cũng đã có đề tài nghiên cứu về các
vấn đề về tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á nói chung và tại chi
nhánh Quang Vinh nói riêng như của các tác giả Nguyễn Cao Quang Nhật, Lý Thị
Mai Trang,… nhưng các đề tài này chỉ mới nghiên cứu về quy trình thẩm định tín
dụng hoặc các vấn đề khác về tín dụng chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề mở
rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh. Thêm vào đó, đề tài
nghiên cứu này lại nằm trong giai đoạn mới- giai đoạn đất nước có nhiều sự biến
động do bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính từ nền kinh tế của thế giới. Do
đó, đề tài nghiên cứu về “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi
nhánh Quang Vinh” sẽ là đề tài nghiên cứu về vấn đề mới nằm trong giai đoạn mới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong bài báo cáo nghiên cứu khoa học này tác giả sử dụng phương pháp

6. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.
Qua những vấn đề nghiên cứu của đề tài “ Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu
quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đại Á chi nhánh Quang Vinh ” sẽ giúp cho đơn vị thấy được những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng, những mặt mặt tích cực và những hạn chế còn tồn tại trong
hoạt động tín dụng để trên cơ sở đó đề ra những giải pháp và chính sách phù hợp
nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
đơn vị.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
.
.
Trong năm vừa qua nền kinh tế thế giới có nhiều sự thay đổi lớn, cuộc khủng
hoảng tài chính bắt đầu từ sự sụp đổ của các Ngân hàng, Tập Đoàn lớn ở nước Mỹ
kéo theo nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề. Việt Nam, sau khi gia nhập vào
WTO thì việc bị ảnh hưởng ít nhiều là điều tất yếu. Nền kinh tế của Việt Nam nói
chung hay các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, Ngân hàng nói riêng hiện đang
nằm trong giai đoạn khó khăn. Vì thế Chính phủ và các cấp lãnh đạo của Việt Nam
cần phải đề ra các giải pháp, chính sách phù hợp để đưa nền kinh tế của nước ta thoát
ra khỏi tình trạng khó khăn như hiện nay.
6
Nằm trong giai đoạn kinh tế trong nước có nhiều sự đổi mới đó đề tài nghiên
cứu về “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” sẽ
đóng góp một số giải pháp mới để mở rộng hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa áp dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh
nói riêng hay các đơn vị Ngân hàng khác nói chung. Qua đó đóng góp một phần nhỏ
vào việc đưa các Ngân hàng nói riêng hay các tổ chức tài chính trong nền kinh tế
trong nước nói chung thoát khỏi trình trạng khó khăn như giai đoạn hiện nay.
8. KẾT CẤU CỦA BÀI BÁO CÁO
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo nghiên cứu khoa học gồm 3 chương

(Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn [3])
8
Người cho vay Người đi vay
Vốn + lãi
Vốn
Tóm lại tín dụng thể hiện ba mặt cơ bản sau:
- Có sự chuyển giao quyển sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người
khác.
- Sự chuyển giao chỉ mang tính tạm thời.
- Khi hoàn trả lại giá trị đã chuyển giao phải bao gồm cả vốn gốc và lãi
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng:
- Chủ thể: Ngân hàng – các doanh nghiệp, cá nhân.
- Đối tượng: Chủ yếu là tiền tệ.
- Mục đích: phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng,…
- Công cụ lưu thông: kỳ phiếu Ngân hàng, trái phiếu Ngân hàng, chứng chỉ
tiền gửi, hợp đồng tín dụng, khế ước vay…
- Thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn….
- Tính chất: mang tính gián tiếp ( trong đó Ngân hàng là định chế tào chính
trung gian)
1.1.3. Chức năng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.3.1. Phân phối lại vốn tiền tệ trong nền kinh tế:
Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác, hay cụ thể
hơn là sự vận động của vốn từ doanh nghiệp, cá nhân có vốn tạm thời thừa sang các
doanh nghiệp, cá nhân đang tạm thời thiếu vốn. Nghĩa là, nhờ vào sự vận động của tín
dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một phần vốn tiền tệ từ các chủ thể khác
trong xã hội để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng.
Vốn tín dụng có thể phân phối dưới hai hình thức:
- Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể này sang chủ thể tạm thời thừa
vốn sang chủ thể trực tiếp sử dụng vón đó để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
- Phân phối gián tiếp: Việc phân phối được thực hiện thông qua các định chế tài chính

Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu, vừa đảm bảo an toàn, tách rủi ro tín dụng,
vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.1.4.2. Tín dụng là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước:
- Ngày nay, Nhà nước sử dụng tín dụng của hệ thống Ngân hàng để điều tiết
quá trình kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương để thực
hiện các mục tiêu vĩ mô như: ổn định giá trị tiền tệ, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng…
10
- Chính sách tín dụng của Nhà nước cho phép hệ thống Ngân hàng mở rộng
hay thắt chặt tín dụng để đạt được một tốc độ phát triển kinh tế như ý muốn. Với
chính sách tín dụng, Nhà nước có thể hình thành cơ cấu nền kinh tế theo sự hoạch
định trước.
1.1.4.3. Tín dụng Ngân hàng là chỗ dựa để các nhà doanh nghiệp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh:
Nhờ có tín dụng mà mỗi doanh nghiệp chỉ giữ cho mình một khoản vốn tự có
tối thiểu cần thiết. Khi có nhu cầu sản xuất kinh doanh tăng lên, doanh nghiệp nhờ
vào tín dụng để thoã mãn cơ hội kinh doanh. Ngược lại, khi nhu cầu sản xuất kinh
doanh suy giảm, doanh nghiệp sẽ gửi tiền vào Ngân hàng để sinh lợi hoặc mua các
công cụ tài chính sinh lợi khác. Khi cần vốn kinh doanh họ có thể chiết khấu các công
cụ tài chính này với Ngân hàng hay vay Ngân hàng bằng cách cầm cố các giấy tờ này.
Như vậy, các nhà kinh doanh có thể sử dụng nguồn vốn tự có của mình một
cách có hiệu quả hơn mà không phải tập trung nguồn vốn tự có quá lớn.[4]
1.1.5. Phân loại cho vay của Ngân hàng:
1.1.5.1. Căn cứ vào mục đích tín dụng:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như:

khách hàng mà không cần nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được Ngân hàng cung cấp phải có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Nếu khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi cho vay vốn đòi hỏi phải có sự đảm
bảo, sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai bổ
sung cho nhuồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.1.5.5. Căn cứ vào hình thái giá trị:
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái của tín dụng được cấp bằng
12
tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của Ngân hàng và thực hiện bằng các kỹ thuật khác
như: tín dụng ứng trước, tín dụng trả góp, tín dụng thời vụ, thấu chi.
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay phổ biến và đa dạng riêng đối với
Ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo
phương thức cho vay này, Ngân hàng hoặc các công ty thuê mua (công ty con của
Ngân hàng) cung cấp trực tiếp bằng tài sản cho người đi vay được gọi là người đi
thuê, và theo định kỳ người đi thuê phải hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
[5]
1.1.5.6. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay phi trả góp: là loại cho vay được hoàn trả toàn bộ vốn gốc một lần
khi đáo hạn.
- Cho vay hoàn trả theo định kỳ:Là loại cho vay mà người vay có thể hoàn trả
nhiềun lần theo khả năng trong thời hạn hợp đồng.[5]
1.1.5.7. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể:
- Cho vay trực tiếp: là loại cho vay mà Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người
có nhu cầu, đồng thời người vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ cho vay trực tiếp
( Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn [3])
- Cho vay gián tiếp: là loại cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại khế

Ngân hàng
Thanh toán nợ
Cấp vốn
Khách hàng
nhận vốn vay
Người thanh
toán nợ
14
Vốn huy động
( Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn[3])
Dư nợ cho vay
- Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn: Chỉ tiêu này chứng tỏ uy tín của
Ngân hàng trong việc huy động nguồn vốn.
Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn=
- Tỷ lệ nợ quá hạn: là chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng của các Ngân
hàng, nếu chỉ tiêu này thấp thể hiện chất lượng tín dụng cao và ngược lại. Chỉ số này
được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ =
- Vòng quay vốn tín dụng: thể hiện tốc độ luân chuyển của vốn tín dụng, chỉ
tiêu này chỉ phản ánh hiệu quả phục vụ nhu cầu vốn cho nền kinh tế của tín dụng.
Tuy nhiên, xét về hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng, nếu chỉ số này cao thì sẽ tăng
hiệu quả chi phí hoạt động và giảm thời gian khả dụng của vốn tín dụng vì thu nhập
hoạt động tín dụng được tính toán được tính toán dựa trên dư nợ bình quân. Chỉ số
này được tính như sau:
Vòng quay vốn tín dụng=
- Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản(ROA): chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo ra
thu nhập từ tài sản có của Ngân hàng.
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản =
- Tỷ suất sinh lợi trên vốn tự có(ROE): Chỉ tiêu này Ngân hàng rất quan tâm vì
nó cho thấy được hiệu quả tình hình sử dụng vốn ccủa Ngân hàng.

1.2.1. Khái niệm và phân loại rủi ro:
Trong hoạt động kinh doanh luôn luôn có nhứng khó khăn khiến dự định kinh
doanh ban đầu có thể không đạt được như ý muốn, tất cả những khó khăn đó gọi là
rủi ro. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú, vì vậy rủi ro
đe dọa nó cũng có nhiều hình thái khác nhau. Theo loại hình rủi ro gắn với hoạt động
kinh doanh có thể chia rủi ro của Ngân hàng ra làm các loại rủi ro chính như: rủi ro về
ngân quỹ, rủi ro về chứng khoán, rủi ro về lãi suất, rủi ro về tín dụng, rủi ro về tài sản
khác. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì rủi ro tín dụng là rủi ro hay xảy
ra nhất và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là tình trạng người vay vốn Ngân hàng cố tình hoặc không có
khả năng hoàn trả một phàn hoặc toàn bộ gốc và lãi đúng thời hạn trong hợp đồng
tín dụng.[4]
Rủi ro tín dụng có hai loại:
- Rủi ro sai hẹn: là rủi ro khi người vay vốn không hoàn trả đủ gốc và lãi tiền
vay đúng hẹn trong hợp đồng tín dụng.
- Rủi ro mất vốn: là rủi ro khi người vay vốn Ngân hàng không hoàn trả gốc
tiền vay một cách đầy đủ.
Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân
hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu của các
Ngân hàng. Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm
không chỉ trong phạm vi các Ngân hàng, mà cả trên phạm vi toàn nền kinh tế.

16
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng, cần phải
hiểu rõ nguyên nhân nào đưa đến rủi ro tín dụng để có biện pháp hữu hiệu nhất làm
cho kinh doanh tín dụng mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng. Rủi ro tín dụng xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, nhìn chung bao gồm: nguyên nhân chủ quan từ phía
khách hàng, Ngân hàng, hay nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng của nền kinh
tế, môi trường kinh doanh, pháp lý….

cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá
phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất
do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Nền kinh tế suy thoái đó làm xuất hiện những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ
và phá sản. Từ đó các khoản tiền vay của ngân hàng không trả được hoặc nếu lạm
phát ngày càng gia tăng cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì trong giai đoạn
lạm phát xảy ra người gửi tiền có tâm lý lo sợ nên rút tiền ra khỏi ngân hàng, còn
người đi vay thì gia tăng nhu cầu xin vay và muốn kéo dài thời gian vay vốn làm ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng.
1.2.1.2. Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và không chặt chẽ:
- Sự quản lý kém hiệu quả của cơ quan pháp luật địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật văn bản dưới
luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tuy nhiên,
luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động của Ngân hàng thì lại
hết sức chậm chạp và gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số vấn đề cưỡng chế và
thu hồi nợ như trường hợp khách hàng không trả được nợ, Ngân hàng Thương mại có
quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Thực tế, Ngân hàng Thương mại không làm
được điều này vì Ngân hàng Thương mại không phải là một tổ chức kinh tế, không có
chức năng chế buộc khách hàng…cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng
không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Chính vì môi trường pháp lý
không chặt chẽ tạo cho khách hàng có cơ hội lợi dụng sơ hở của pháp luật, gây bế tắc
cho Ngân hàng khi giải quyết các khoản thu hồi.
18
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra Ngân hàng
và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải tiến căn bản về chất lượng. Năng lực cán
bộ thanh tra giám giát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh

1.2.2. Rủi ro do nguyên nhân chủ quan:
1.2.2.1. Rủi ro từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn Ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Có hai trường hợp rủi ro từ phía khách hàng:
Trường hợp thứ nhất, khách hàng là doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích,
cố ý lừa đảo Ngân hàng để chiếm đoạt tài sản. Đây là trường hợp tồi tệ nhất trong các
nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nó biểu hiện là hành
động có chủ ý của người vay, được tính toán chuẩn bị trước nhằm mục đích chiếm
đoạt tiền vay của Ngân hàng. Họ tìm cách làm giả mạo giấy tờ, chũ ký, con dấu, hoặc
điều chỉnh các báo cáo tài chính, hay làm các hóa đơn, chứng từ mua bán khống…để
vay được vốn của Ngân hàng sau đó sử dụng tiền vay không đúng mục đích, không
trả nợ. Trường hợp này không nhiều, tuy nhiên, khi vụ việc phát sinh lại ảnh hưởng
hết sức nặng nề, Ngân hàng khó lòng thu hồi được nợ, có nguy cơ bị mất vốn hoàn
toàn hoặc chỉ thu hồi được một phần, làm liên quan đến uy tín của cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Trường hợp thứ hai, khách hàng có ý muốn trả nợ nhưng đang gặp khó khăn
về tài chính tạm thời do những yếu tố khách quan ngoài ý muốn của khách hàng. Có
rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng chủ yếu vẫn là do khả năng quản
lý kinh doanh kém hiệu quả. Có một thực tế là khi doanh nghiệp vay tiền của Ngân
hàng để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đa phần là tập trung vốn đầu tư về tài
sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho
bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh
doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của
phương án sản xuất kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Thêm vào đó, do hạn chế về kiến thức kinh doanh nên khi lập các phương án
kinh doanh, các dự án đầu tư, doanh nghiệp đã không tính đến những biến động của
thị trường, đưa ra những phương án kinh doanh không hiệu quả, quản lý vốn lỏng lẻo
20
nên bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn quá nhiều, đầu tư dàn trải không hiệu quả,

- Người bảo lãnh thiếu năng lực về pháp lý, thiếu năng lực về tài chính và
không có uy tín.
1.2.2.2. Rủi ro từ phía Ngân hàng cho vay:
- Công tác kiểm soát nội bộ các Ngân hàng còn lỏng lẻo.
Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Nhà nước ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng, kịp thời ngay từ khi phát sinh vấn đề và tính sâu sát của kiểm soát viên,
do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng
trong thời gian trước đây, công việc kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng hầu hết chỉ
tồn tại trên hình thức.
- Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đạo đức của cán bộ là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề
hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực, trình độ chuyên môn có thể bồi
dưỡng thêm, nhưng một cán bộ bị tha hóa về đạo đức mà giỏi về mặt nghiệp vụ thì
thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế dẫn đến hàng
loạt các nguyên nhân sau:
+ Thiếu khả năng phân tích khách hàng như khả năng phân tích thẩm định dự
án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc không
phân tích được báo cáo tài chính một cách chính xác, không biết được năng lực thật
sự của khách hàng.
+ Quá trình tái xét khoản vay không tích cực: Tái xét là quá trình theo dõi,
giám sát khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không? Có nguy cơ xảy ra
mất vốn hay không? Nếu xét thấy khả năng xấu có thể xảy ra thì phải tiến hành thu
hồi nợ trước hạn hoặc đề ra biện pháp hỗ trợ thích hợp. Tái xét cho vay không tích
cực, không chặt chẽ để đến khi vỡ nợ Ngân hàng sẽ khó thu hồi nợ.
- Thiếu sự giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các Ngân hàng thường tập trung nhiều công sức vào việc thẩm định trước khi
cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn của mình sau khi cho
vay. Khi Ngân hàng cho vay thì các khoản vay cần phải được quản lý một cách chủ
động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên trong thời gian qua các Ngân hàng

năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng.
23
+ Định kỳ hạn trả nợ cho các khoản vay không đúng thực tế, vì định hạn nợ rất
quan trọng, thời điểm trả nợ phải là thời điểm có thu nhập. Nếu xác định kỳ hạn sai sẽ
xảy ra hai trường hợp:
• Khách hàng có thu nhập sớm hơn thời điểm trả nợ cho nên số tiền thu
được sẽ sử dụng vào mục đích khác, nên khi đáo hạn khách hàng
không có tiền trả nợ cho Ngân hàng.
• Khách hàng có thu nhập sau thời điểm trả nợ, tất nhiên khách hàng
không có tiền trả nợ cho Ngân hàng khi đến hạn dẫn đến phải gia hạn
hoặc chuyển nợ quá hạn.
+ Các khoản tín dụng tùy tiện nhất là thành phần quen biết của Ngân hàng: do
nể nang, nhân từ hay tham ô, hối lộ, thông đồng với khách hàng…mà cán bộ tín dụng
cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có rủi ro cao vay.
+ Do sử dụng sai nguồn vốn: lấy vốn ngắn hạn cho vay dài hạn sẽ dẫn đến tình
trạng mất khả năng thanh toán.
+ Không tuân thủ theo quy trình nghiệp vụ đã quy định.
+ Không sử dụng các hình thức đảm bảo tiền vay thích hợp để cho vay: với
khách hàng nào, trường hợp nào thì sử dụng tín dụng không đảm bảo, trường hợp nào
sử dụng tín dụng có đảm bảo. Đối với khách hàng chưa có độ tin cậy, Ngân hàng
thường cho vay có đảm bảo.
1.2.3 NHỮNG THIỆT HẠI DO RỦI RO TÍN DỤNG GÂY RA:
1.2.3.1 Đối với Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng về lợi nhuận và tài sản:
- Về mặt tài chính: do không thu được nợ (gốc và lãi) Ngân hàng đã bị giảm
doanh thu trong khi vẫn chi trả tiền lãi, lãi đầu vào của nguồn vốn huy động, gây mất
cân đối trong thu chi nghiệp vụ.
Nợ quá hạn chính là hậu quả của Ngân hàng phải gánh chịu: không thu được
nợ, vòng vay vốn tín dụng không được thực hiện. Ngân hàng không có khả năng đảm
bảo vốn lưu động, hạn chế cả vai trò phục vụ lẫn chức năng kinh doanh của TDNH.

doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỉ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người” .
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status