So sánh ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm egg stimulant và selvie WD đến năng suất và chất lượng trứng của gà thương phẩm isa shaver nuôi tại thành phố thái nguyên - Pdf 14

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ: Bình quân
CS: Cộng sự
ĐC: Đối chứng
HU: Chỉ số Haugh
NLTĐ: Năng lượng trao đổi
TĂ: Thức ăn
TN: Thí nghiệm
Vit: Vitamin
VCK: Vật chất khô
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC HÌNH
IU 24
2,000 24
mg 24
1,000 24
mg 24
2,000 24
mg 24
5,000 24
mg 24
1,000 24
mg 24
2 24
mg 24
20,000 24
mg 24
4,800 24
mg 24

tăng khả năng sản xuất của gia cầm, cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn, ổn
định hệ vi sinh vật có lợi, đồng thời ức chế sinh trưởng, phát triển của một số
loại vi sinh vật có hại cho gia cầm.
1
Egg Stimulant và Selvie - WD là những chế phẩm như vậy. Với việc bổ
sung chế phẩm vào khẩu phần ăn, nước uống của gà, Egg Stimulant và Selvie
- WD giúp giảm tỷ lệ chết, tăng sức đề kháng, kéo dài chu kỳ đẻ của gà, tăng
sản lượng trứng, tăng độ đậm màu của lòng đỏ trứng, cải thiện tỷ lệ ấp nở và
cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn cho gà. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có kết quả nghiên cứu tổng thể nào về mức độ ảnh hưởng của các chế phẩm
trên đến năng suất và chất lượng trứng gà. Chính vì vậy để có cơ sở khoa học
đánh giá ảnh hưởng của các chế phẩm này trong lĩnh vực chăn nuôi gà sinh
sản, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
 !"#$$%
&'()&*+,-,./01
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được ảnh hưởng của chế phẩm Egg Stimulant và Selvie -
WD đến năng suất, chất lượng trứng của gà thương phẩm Isa Shaver.
- Đưa ra khuyến cáo đối với người chăn nuôi và người tiêu dùng khi sử
dụng chế phẩm.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
23435678
Đóng góp những số liệu khoa học về hiệu quả của chế phẩm Egg
Stimulant và Selvie - WD khi bổ sung vào khẩu phần của gà Isa Shaver nuôi
tại Thái Nguyên.
Kết quả của đề tài này sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị để phục vụ cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy trong nhà trường.
239356:;"<
Kết quả của đề tài sẽ là cơ sở để khẳng định hiệu quả của việc bổ sung
chế phẩm Egg Stimulant và Selvie - WD cho gà Isa Shaver thương phẩm.

Thời kỳ sinh trưởng lớn: Chỉ từ 4 – 13 ngày, đây là thời kỳ tích luỹ lớn
nhất 90% - 95% khối lượng trứng được tích luỹ trong giai đoạn này. Vào thời
kỳ đẻ đường kính của tế bào trứng 35 - 45mm
Số lượng tế bào trứng ở gà mái có thể đến hàng triệu. Frege. H.A. (1978)
xác định số lượng trứng lúc gà bắt đầu đẻ từ 900-3600 nhưng chỉ có một số
lượng hạn chế trứng chín và rụng (dẫn theo Phạm Thị Minh Thu, 2002 [27]).
Trong thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một tầng
tế bào không có liên kết với biểu bì phát sinh, tầng tế bào này phát triển trở
thành nhiều tầng và sự tạo thành tiến tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi
là follicun. Bên trong follicun có một khoảng hở chứa đầy dịch, bên ngoài
follicun giống như một cái túi. Trong thời kỳ đẻ trứng, nhiều follicun chín dần
làm thay đổi hình dạng buồng trứng trông giống như chùm nho. Sau thời kỳ
đẻ trứng, buồng trứng trở về hình dạng ban đầu, các follicun trứng vỡ ra, quả
trứng chín chuyển ra ngoài cùng với dịch của follicun và rơi vào phễu ống
dẫn trứng. Sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự thành thục sinh dục, đó là quá
trình đi ra của tế bào trứng chín. Từ buồng trứng, bình thường sự rụng trứng
chỉ xảy ra một lần trong một ngày, có những trường hợp đặc biệt có thể hai
hoặc ba tế bào cùng rụng một lúc, trường hợp quả trứng của ngày hôm trước
đẻ sau 4 giờ chiều thì phải sang ngày hôm sau mới xảy ra quá trình rụng
trứng. Tính chu kỳ của sự rụng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
như: điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, lứa tuổi, trạng thái sinh lý của gia cầm.
Song điều chung nhất là sự rụng trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của thân
kinh và thể dịch, (Nguyễn Duy Hoan và cs, 1998 [11]).
+ Ống dẫn trứng: Là một ống dài có nhiều khúc cuộn, tại đây xảy ra quá
trình thụ tinh và hình thành trứng của gia cầm. Tuỳ thuộc vào hình dạng và
chức năng của ống dẫn trứng mà người ta chia thành các loại khác nhau. Kích
thước và hình dạng ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và các hoạt động của
cơ quan sinh dục. Trước khi đẻ quả trứng đầu tiên ống dẫn trứng dài ra, khối
4
lượng tăng lên rất nhiều và nó chia thành từng phần khác nhau: Ở gà không

* Những trường hợp trứng dị hình:
- Trứng không có lòng đỏ: Do trong cơ thể có những tế bào chết rơi vào
loa kèn và ống dẫn trứng không phân biệt được vì vậy vẫn có quá trình tạo
trứng và hình thành trứng nhỏ.
- Trứng 2 lòng đỏ: Do 2 trứng cùng rụng một thời điểm hoặc cách nhau
không quá 20 phút vì vậy hình thành nên quả trứng rất to.
- Trứng trong trứng: Thường ít gặp, do bị kích động đột ngột một quả
trứng hoàn chỉnh bị ống dẫn trứng co lại gây ra nhu động ngược lên phía trên
gặp tế bào trứng mới rụng, sẽ nằm cùng với lòng đỏ của trứng mới bên ngoài
được bao bọc bằng lòng trắng và vỏ cứng.
Ngoài ra còn có trứng méo mó, không vỏ do thiếu khoáng, vitamin D, do
co bóp của ống dẫn trứng…
1.1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của gia cầm
Để duy trì và phát triển đàn gia cầm thì khả năng sinh sản là yếu tố cơ
bản quyết định đến quy mô, năng suất và hiệu quả sản xuất đối với gia cầm.
Sản phẩm chủ yếu là thịt và trứng, trong đó sản phẩm trứng được coi là hướng
sản xuất chính của gà hướng trứng. Còn với gà hướng thịt (cũng như gà
hướng trứng) khả năng sinh sản hay khả năng đẻ trứng quyết định đến sự
nhân đàn di truyền giống mở rộng quy mô đàn gia cầm. Từ đó, nó quyết định
tới năng suất, sản lượng sản phẩm của chăn nuôi gia cầm. Con người chú
trọng đến sinh sản của gia cầm, vì không những chức năng đó liên quan
đến sự sinh tồn của loài cầm điểu mà từ đó con người mới có số lượng
đông đảo gia cầm để sử dụng 2 sản phẩm quan trọng trứng và thịt. Sinh sản
là chỉ tiêu cần được quan tâm trong công tác giống nói chung và công tác
giống gia cầm nói riêng. Ở các loại gia cầm khác nhau thì đặc điểm sinh sản
cũng khác nhau rõ rệt.
6
Để đánh giá khả năng sản xuất trứng của gia cầm người ta thường
dùng các chỉ tiêu sau:
* Tuổi đẻ đầu

của một quần thể gà mái cao sản được thể hiện theo quy luật, cường độ đẻ trứng
đạt cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ.
* Cường độ đẻ trứng
Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Trong thời
gian này có thể loại trừ ảnh hưởng của môi trường. Thời gian kéo dài sự đẻ có
liên quan tới chu kỳ đẻ trứng. Chu kỳ đẻ kéo dài hay ngắn phụ thuộc cường
độ và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong
chăn nuôi gà đẻ. Giữa các trật đẻ, gà thường có những khoảng thời gian đòi
ấp. Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền vì ở
các giống khác nhau có bản năng đòi ấp khác nhau.
Thời gian nghỉ đẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng
trứng cả năm. Gà thường hay nghỉ đẻ mùa đông do nguyên nhân giảm dần về
cường độ và thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngoài ra sự nghỉ đẻ này còn do khí
hậu, sự thay đổi thức ăn, chu chuyển đàn.
* Khối lượng trứng
Là chỉ tiêu đánh giá năng suất trứng tuyệt đối của một cá thể, một đàn
hay một giống gia cầm. Nó là tính trạng có hệ số di truyền cao. Do đó người
ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc giống. Trong chọn lọc cần chú
ý tới chỉ số trung bình chung. Khối lượng trứng phụ thuộc vào khối lượng cơ
thể, giống, tuổi đẻ, tác động dinh dưỡng tới gà sinh sản. Đồng thời khối lượng
trứng lại quyết định tới chất lượng trứng giống, tỷ lệ ấp nở, khối lượng và sức
sống của gà con. Nó là chỉ tiêu không thể thiếu của việc chọn lọc con giống.
8
Theo Nguyễn Duy Hoan và cs, 1998 [11] trong cùng một độ tuổi thì khối
lượng trứng tăng lên chủ yếu do khối lượng lòng trắng lớn hơn nên giá trị
năng lượng giảm dần. Giữa khối lượng trứng ấp và khối lượng gà con khi nở
thường bằng 62 % - 78 % khối lượng trứng ban đầu. Khối lượng trứng của
các loại giống khác nhau thì khác nhau.
1.1.1.3. Một số đặc điểm sinh học của trứng gia cầm
* Đặc điểm hình thái:

ống dẫn trứng. Lòng trắng chủ yếu là Albumin giúp cho việc cung cấp nước
và chất khoáng, tham gia cấu tạo lông, da trong quá trình phát triển cơ thể ở
giai đoạn phôi. Chất lượng lòng trắng được xác định qua chỉ số lòng trắng và
đơn vị Haugh. Hệ số di truyền của tính trạng này khá cao. Awang (1987) cho
biết khối lượng trứng tương quan rõ rệt với khối lượng lòng trắng (r = 0,86)
khối lượng lòng đỏ (r = 0,72) và khối lượng vỏ (r = 0,48) (dẫn theo Trần Huê
Viên, 2000 [40]).
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số lòng trắng, Orlov. M.V
(1974) cho rằng: chỉ số lòng trắng ở mùa đông cao hơn mùa xuân và mùa hè.
Trứng gà mái tơ và gà mái già có chỉ số lòng trắng thấp hơn gà mái đang độ
tuổi sinh sản. Trứng bảo quản lâu, chỉ số lòng trắng cũng bị thấp đi. Chất
lượng lòng trắng còn kém đi khi cho gà ăn thiếu Protein cần thiết và vitamin
nhóm B.
Để đánh giá chất lượng lòng trắng người ta quan tâm đến chỉ số lòng
trắng. Nó được tính bằng tỷ lệ chiều cao lòng trắng đặc so với trung bình cộng
đường kính nhỏ và đường kính lớn của lòng trắng trứng. Chỉ số lòng trắng
chịu ảnh hưởng của giống, tuổi, chế độ nuôi dưỡng. Kết quả nghiên cứu trên
gà lương Phượng của nhóm tác giả Trần Công Xuân và cs, (2002) [41] cho
biết chỉ số lòng trắng của trứng gà Lương Phượng đạt 0,09 ở cả hai dòng M1
và M2; Chỉ số lòng trắng của gà Lương Phượng tại 38 tuần tuổi là 0,12 – 0,13
(Nguyễn Huy Đạt và cs, 2002 [5]); của con lai Lương Phượng x Ri là 0,09 –
10
0,11 (Nguyễn Huy Đạt và cs, 2002 [6]); của gà Isa Brown là 0,09 – 0,11
(Nguyễn Nhật Xuân Dung và cs, 2011 [3]).
- Lòng đỏ: Là tế bào trứng có dạng hình cầu đường kính 35 – 40mm và
được bao bọc bởi màng lòng đỏ có tính đàn hồi nhưng sự đàn hồi này giảm
theo thời gian bảo quản, ở giữa có hốc lòng đỏ nối với đĩa phôi lấy chất dinh
dưỡng từ nguyên sinh chất để cung cấp cho phôi phát triển. Lòng đỏ có độ
đậm đặc cao nằm ở giữa lòng trắng đặc, được giữ ổn định nhờ dây chằng là
những sợi Protein quy tụ ở hai đầu lòng đỏ, phía trên lòng đỏ là mầm phôi.

Nó mang đặc điểm của từng cá thể, do nguyên nhân di truyền ở một mức
độ rõ rệt. Trứng gia cầm có hình ô van, dễ phân biệt được đầu tù và đầu nhọn,
đường cong từ đầu tù đến đầu nhọn phải đều, không bị sần sùi. Hình dạng
trứng không biến đổi theo mùa song quả trứng đầu của chu kỳ đẻ thường dài
và nhỏ hơn những quả trứng sau. Theo Nguyễn Mạnh Hùng và cs, (1994) [13]
hình dạng trứng không phụ thuộc vào khối lượng gà mái mà phụ thuộc vào
đặc điểm cấu tạo và chức năng của ống dẫn trứng, ống dẫn trứng càng dài,
càng to thì trứng đẻ ra càng to. Hình dạng trứng là căn cứ để đánh giá chất
lượng trứng.
Trứng của mỗi loài gia cầm đều có chỉ số hình thái riêng. Nguyễn Mạnh
Hùng và cs, (1994) [13] cho biết khoảng biến thiên của chỉ số hình thái trứng gà
là 1,34 - 1,36. Chỉ số hình dạng của trứng gà lai Ri Lương Phượng và Lương
Phượng Ri từ 1,33 –1,38; của gà Lương Phượng dòng M1 và M2 là 1,34 - 1,35
(Trần Công Xuân và cs, 2002 [41]). Chỉ số này ở gà Leghom là 1,38, gà
Goldline là 1,32 - 1,36 (dẫn theo Trương Thúy Hường, 2005 [15]). Những quả
trứng có chỉ số hình dạng cao, tỷ lệ lòng trắng loãng ít hơn, chỉ số lòng đỏ và
đơn vị Haugh cao hơn.
12
Hình dạng trứng có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong tiêu thụ, vận
chuyển bảo quản mà còn liên quan đến tỷ lệ ấp nở. Ngô Giản Luyện (1994)
[18] cho biết chỉ số hình dạng ảnh hưởng đến vị trí của đĩa phôi khi ấp.
Những quả trứng quá tròn hay quá dài đều có tỷ lệ ấp nở thấp. Vì vậy chỉ số
hình dạng là căn cứ để đánh giá chất lượng bên trong của trứng.
* Độ dày vỏ trứng
Độ dày vỏ trứng ảnh hưởng đến độ bền của trứng và có ý nghĩa trong
việc vận chuyển, quá trình trao đổi chất, là nguồn cung cấp can xi cho phôi.
Một số nghiên cứu cho rằng độ dày vỏ trứng chịu ảnh hưởng của yếu tố di
truyền. Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường như nhiệt độ chuồng cao, tuổi
gà già, các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng kém và tác nhân stress khác đều
làm giảm độ dày và sức bền vỏ trứng.

là thời điểm tại đó gà đẻ đạt tỷ lệ 5 %. Tuổi thành thục sinh dục sớm hay
muộn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, mùa vụ ấp nở, khối lượng và
chất lượng thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng Nhưng yếu tố ảnh hưởng lớn
nhất, quyết định đến tuổi thành thục sớm hay muộn là vấn đề hạn chế thức
ăn trong giai đoạn nuôi hậu bị. Tuổi thành thục sinh dục sớm hay muộn đều
có ảnh hưởng không tốt tới sức sản xuất trứng của gia cầm. Gà đẻ sớm làm
tăng số lượng trứng nhỏ, giảm số lượng trứng giống, giảm số lượng gà
con/mái, tăng chi phí thức ăn/10 quả trứng giống
- Thời gian nghỉ đẻ: Ở gà, thường có hiện tượng nghỉ đẻ trong một thời
gian, có thể kéo dài trong năm đầu đẻ trứng, từ vài ngày tới vài tuần, thậm chí
kéo dài 1 - 2 tháng. Thời gian nghỉ đẻ thường vào mùa đông, nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến sản lượng trứng cả năm. Gia cầm thường thay lông vào mùa
14
đông nên thời gian này gà nghỉ đẻ. Trong điều kiện bình thường, lúc thay lông
đầu tiên là vào thời điểm quan trọng để đánh giá gà đẻ tốt hay xấu. Những
đàn gà thay lông sớm, thời gian bắt đầu thay lông từ tháng 6 - 7 và quá trình
thay lông diễn ra chậm, kéo dài 3 - 4 tháng là những đàn gà đẻ kém. Ngược
lại, có những đàn gà thay lông muộn, thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 10
-11, quá trình thay lông diễn ra nhanh là đàn gà đẻ tốt. Đặc biệt ở một số đàn
gà cao sản, thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 - 5 tuần và lại đẻ ngay khi chưa hình thành
xong bộ lông mới. Có con gà đẻ ngay trong thời kỳ thay lông.
- Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: Chu kỳ đẻ trứng sinh học
liên quan đến thời vụ nở của gia cầm non. Tuỳ thuộc vào thời gian nở mà sự
bắt đầu và kết thúc của chu kỳ đẻ trứng sinh học có thể xảy ra trong thời gian
khác nhau trong năm. Thường ở gà, chu kỳ đẻ trứng kéo dài 1 năm; ở gà tây,
vịt, ngỗng chu kỳ này ngắn hơn và theo mùa. Chu kỳ đẻ trứng sinh học có
mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền
đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng. Giữa tuổi thành thục và thời gian kéo dài chu kỳ
đẻ trứng sinh học có mối tương quan nghịch rõ rệt.
- Tính ấp bóng hay bản năng đòi ấp trứng: Đây là phản xạ không điều

và ảnh hưởng lớn sức đẻ trứng của gia cầm, đặc biệt đối với gia cầm nuôi theo
phương thức quảng canh hoặc bán thâm canh.
- Độ đồng đều của đàn gia cầm sinh sản: Năng suất trứng tỷ lệ thuận với
độ đồng đều của quần thể gà, yêu cầu khi gà chuẩn bị lên đẻ độ đồng đều của
đàn gà phải đạt trên 80 %. Điều này cần đặc biệt chú ý khi nuôi gà hậu bị
giống. Nhiều công trình nghiên cứu trong nước cũng như ngoài nước đã ứng
dụng đạt kết quả tốt là phải nuôi gà hậu bị giống bằng chế độ cho ăn hạn chế,
chỉ cho ăn 70 – 80 % lượng thức ăn theo định mức hàng ngày.
Một số biện pháp kỹ thuật làm tăng độ đồng đều của đàn gà (khi cho ăn
hạn chế) như: Rải thức ăn nhanh, tăng số máng ăn để đảm bảo mỗi gà đều có
chỗ đứng để ăn, phân loại gà theo khối lượng cơ thể lúc 7 và 16 tuần tuổi để
16
điều chỉnh lượng thức ăn, cân cá thể hàng tuần 10 - 20 % số gà có mặt để
điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
- Cường độ đẻ trứng: Liên quan mật thiết với sản lượng trứng, nếu cường
độ đẻ trứng cao thì sản lượng trứng cao và ngược lại. Yếu tố này do 2 cặp gen
R và r phối hợp cộng lại để điều hành.
- Chu kỳ đẻ trứng: Chu kỳ đẻ trứng được tính từ khi đẻ quả trứng đầu tiên
đến khi ngừng đẻ và thay lông, đó là chu kỳ thứ nhất. Chu kỳ thứ hai bắt đầu
từ khi gia cầm bắt đầu đẻ lại (sau khi thay lông) tới khi ngừng đẻ và thay lông
lần thứ hai. Cứ như thế có thể xác định tiếp tục các chu kỳ tiếp theo. Chu kỳ
đẻ trứng liên quan tới vụ nở gia cầm con mà bắt đầu và kết thúc ở các tháng
khác nhau thường ở gà là một năm. Nó có mối tương quan thuận với tính thành
thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng, yếu tố
này do hai gen P và p điều hành. Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo
dài chu kỳ đẻ trứng.
- Thay lông: Sau mỗi chu kỳ đẻ trứng gia cầm nghỉ đẻ và thay lông, ở điều
kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên là những điểm quan trọng để đánh giá
gia cầm đẻ tốt hay xấu. Ngược lại nhiều con thay lông muộn và nhanh thời gian
nghỉ đẻ dưới hai tháng, đặc biệt là đàn cao sản thời gian nghỉ đẻ chỉ 4-5 tuần và

C. Tocopherol bền với nhiệt độ
(170
0
C chưa bị phân hủy) nhưng bị tia tử ngoại phá hủy nhanh chóng
Hoạt tính sinh học của α-tocopherol là 100 thì của β, γ, δ lần lượt là 45,
13 và 0,4. 1IU vitamin E = 1mg α-tocopherol acetate
- Vai trò của vitamin E
Vitamin E có vi trò tham gia nhiều vào quá trình oxy hóa khử (trao đổi
chất), là thành phần trực tiếp các loại men hệ hô hấp.
Giúp phục hồi chức năng tế bào cơ, tùy xương, mạch máu và mô mỡ.
Vitamin E điều tiết hoạt động các tuyến dưới thuộc hệ sinh sản và tăng
năng suất vật nuôi.
Vitamin E còn là chất chống oxy hóa của β - caroten, vitamin A và
axit linoleic.
Vitamin E loại bỏ quá trình hình thành chất độc trong cơ thể và đào thải
chúng ra khỏi cơ thể, giúp cho lòng đỏ trứng có màu đỏ tươi và cân bằng tích
lũy vitamin A trong trứng, gan…
18
Vitamin E tham gia chuyển hóa gluxit, lipit, axit nucleic, tổng hợp
vitamin C, chuyển hóa các axit amin chứa lưu huỳnh.
Vitamin E trực tiếp điều chỉnh quá trình tổng hợp ADN trong cơ và tủy
xương, tham gia trực tiếp cấu tạo các axit nucleic để tổng hợp nên các axit
amin rất cần cho mọi giai đoạn phát triển của cơ thể: Tăng trọng đối với gia
súc non, tăng năng suất và chất lượng đối với gia súc chửa đẻ… tăng khả
năng kháng bệnh, chống mệt mỏi, giải độc cho cơ thể…
Thiếu vitamin E rất hay gặp trong chăn nuôi gà tập trung với các biểu
hiện điển hình như: thần kinh (co giật, đi vòng quanh, ngoẹo đầu), phù nề
phần cổ, giảm sức đề kháng, gà con chậm lớn, gà đẻ không đều, giảm sản
lượng trứng, tỷ lệ ấp, nở thấp, gà con nở ra yếu.
- Nguyên nhân thiếu vitamin E

đặc biệt là trong các loại hạt nảy mầm như: Mầm lúa mì, cám gạo, cao
lương, ngô hạt…
* Selenium
Theo từ điển hóa học Anh - Việt (2000)[39] định nghĩa về selen: Selen
là nguyên tố phi kim rất độc trong nhóm VI, nguyên tử số 34, màu sáng thép,
tan trong Cacbondisunfua, không tan trong nước và cồn, dùng trong phân tích,
luyện kim và các pin quang điện và như chất ổn định dầu bôi trơn và hóa chất
trung gian.
Selenium là một muối của Selen. Selen được phát hiện vào năm 1817,
do các nhà hóa học người Thụy Điển Jons Jakop Berzelius, ông tìm thấy
nguyên tố này gắn liền với (trái đất). Selen theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là mặt
20
trăng. Một thế kỷ sau, vai trò quan trọng của nó được xác định bởi Schwars và
Foltz. Hai nhà khoa học đã phát hiện và chứng minh rằng selen ở liều lượng
400µg tính ra cho một kg thức ăn có tác dụng mạnh hơn Vit E 500 lần, hơn
các axit amin chứa lưu huỳnh 25000 lần. Selen trở lên một yếu tố quan trọng
của dinh dưỡng người và thực vật.
Những công trình nghiên cứu cơ bản về vai trò của selen trong hóa sinh
học ở động vật và con người. Selen đã được xác định là một nguyên tố vi
lượng không thể thiếu được cho sự sống. Selen có trong thành phần của đạm
thực vật và động vật, đặc biệt là nhóm – S – SeH được coi là nhóm hoạt động
của rất nhiều men trong cơ thể.
Jean Paul Cortay và cs (2003) [16] chỉ ra rằng: Phát hiện ra vai trò của
Selen trong quá trình chống lại các gốc tự do, biến nó trở thành ngôi sao mới
của nhu cầu bổ sung muối khoáng.
Trong thiên nhiên rất hiếm thấy selen ở dạng nguyên tố khoáng vật của
nó, thường ở chung với quặng sunfua và được điều chế từ bùn Anot (Lê Mậu
Quyền, 2004) [23].
- Vai trò của Selen
Selen có khả năng liên kết với các kim loại nặng như: Hg, Cu, Co,

Từ các axit béo bị oxy hóa này mà các chất trung gian của viêm, dị ứng
được tạo thành. Do đó, selen cũng có vai trò trong hoạt động thay đổi thể dịch
của máu và các đáp ứng miễn dịch. Trong những chức năng chống viêm, nó
có tác dụng hiệp đồng với Glutathion, vitamin E và các axit béo không no.
- Nhu cầu selen của gia súc, gia cầm.
Hàm lượng selen trong cơ thể vật nuôi không ổn định, nhưng nó chỉ
dao động trong một giới hạn nhỏ và có thể thay đổi ít nhiều tùy thuộc vào
khẩu phần selen. Đối với vật nuôi hàm lượng này có thể từ 0,1 – 1 mg/kg, còn
đối với động vật hoang rã, thì hàm lượng này có thể cao hơn một chút.
Có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó phải kể đến
có công trình nghiên cứu của Arnold (1972) trên gà, của Tilop (1969) trên
lợn, của Pirop và Tilop (1969) trên bò, của Allsop và Millar (1972) trên chuột
cống trắng.
22


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status