Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay - Pdf 14

Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
LỜI MỞ ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác
đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng
như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy
chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không
ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng vì thế cũng có
những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai
đoạn lịch sử. Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn
đạt được trong hơn 20 năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản
Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn
những nhận thức chưa đúng đắn hoặc vận dụng chưa triệt để nguyên tắc lý luận
này dẫn đến những hạn chế và hệ lụy chưa tốt. Để tìm hiểu sâu hơn về những mặt
Đảng đã và chưa làm được khi đưa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vào vận dụng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, nhóm 5 đã lựa chọn đề tài “Vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
hiện nay”.
Đề tài gồm có 3 phần chính:
Chương I: Tổng quan về lý luận và thực tiễn: Trình bày những khái niệm cơ
bản về lý luận, thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Chương II: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Thành tựu đạt được và một số hạn chế
Nhóm 5 – CH19A 1
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về thực tiễn
1.1.1. Các quan điểm về thực tiễn

Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
1.2. Tổng quan về lý luận
Lý luận là kết quả cao nhất của nhận thức, là hệ thống những tri thức được
khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn,
phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan.
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với
thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại,
trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định.
Lý luận được hình thành trên cơ sở của quá trình nhận thức, nhưng không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp đối tượng mà nó mang tính gián tiếp. Tức là
quá trình hình thành lý luận chỉ thông qua quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá.
Quá trình đó diễn ra trên cơ sở kết quả của tri thức khoa học.
Để hình thành tri thức khoa học, con người phải thông qua quá trình nhận
thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại
diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức
kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và
tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở
trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó,
có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt
động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con
người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con
người.
Lý luận cũng có lý luận khoa học, là những lý luận được hình thành trên cơ sở
tư duy khoa học, là kết quả của nhận thức khoa học và được thực tiễn kiểm nghiệm,

các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động
thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt
khác, hoạt động thực tiễn của con người còn làm nảy sinh những vấn đề mới đời hỏi
quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó lý luận được bổ sung, mở
rộng.
Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động của con người không chỉ là nguồn
gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con
Nhóm 5 – CH19A 4
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
người với tự nhiên và xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động
thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích con người bám sát thực tiễn
để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người,
làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động của
con người không bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó thực tiễn đã
thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời – khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái
quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ
yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách
quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã
hội. Tự thân lý luận không tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người.
Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến
đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý
luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận thực chất
là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là
giá trị của phương pháp lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó mọi
lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn, những lý luận
đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang trí thức nhân loại, những kết luận chưa
phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý
luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Tuy thực tiễn là tiêu

luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu của lý
luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của
con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú và đa
dạng nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái
quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp mà còn
định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng
lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn, không
những thế lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận
vào hoạt động thực tiễn, từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục
đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ, lực
lượng tiến hành và những phát sinh trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố
tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực để đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn.
Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn
Nhóm 5 – CH19A 6
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi
lý luận cho phù hợp với thực tế. Khi vận dụng lý luận vào thực tế, chúng có thể mang
lại hiệu quả hoặc không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý
luận phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho
phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì
nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”.
Nhóm 5 – CH19A 7
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Để phát triển lý luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được
yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục

cho lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn đang tiếp tục. Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khoá (IX) đánh giá: “Công tác
lý luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”và nhấn mạnh: “Đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, song song với con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng cũng đã nhận định đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu,
"diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến
phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Điều cần nhấn
mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân;
nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi
đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh chóng
vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhận định được những khó khăn này
Đảng cần phải đưa ra những đường lối, chính sách sát với thực tiễn hơn nữa, để đối
phó, và giải quyết những nguy cơ, khó khăn đang cận kề.
2.2. Trong hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận khoa học làm phương
pháp, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với không gian và thời gian
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn mục
đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử đã
được lý luận khái quát. Mặc dù thực tiễn diễn biến phức tạp, ít khi lặp lại hoàn
toàn, song thực tiễn nào cũng mang tính khách quan, mang tính khuynh hướng.
Chính vì lý luận có khả năng phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có
khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn. V.I. Lênin đã nói rất đúng rằng:
“Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
Nhóm 5 – CH19A 9

các lĩnh vực của đời sống xã hội thế giới. Không có một quốc gia nào đứng ngoài
sự tác động của nó. Khoa học và công nghệ là sự kế thừa và tích hợp thành tựu của
quá khứ và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu mang
Nhóm 5 – CH19A 10
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
tính nhân loại. Con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các
quốc gia chậm phát triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng triệt để thành tựu của
khoa học và công nghệ nhân loại để phát triển đất nước. Để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, chúng
ta phải nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng triệt để sự phát triển của khoa học và công
nghệ thế giới mới có thể phát huy hết tiềm năng vốn có. Chính vì vậy, định hướng
phát triển khoa học và công nghệ nước ta trong thời gian tới là: "Tập trung xây dựng
và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, tăng năng lực tiếp thu,
làm chủ thích nghi, cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài trong một
số lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, rút ngắn thời gian chuyển giao công
nghệ, sớm đưa vào ứng dụng trong sản xuất".
Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi vận dụng vào thực tiễn
phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, đồng thời biết tiếp thu những thành tựu
của tư duy nhân loại trong xây dựng nền kinh tế thị trường, thành tựu về xây
dựng bộ máy nhà nước pháp quyền, cơ chế quản lí khoa học, công nghệ, văn hoá, xã
hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Một trong những lĩnh vực hoạt động của con người mà thực tiễn và lý luận
được kết hợp một cách mật thiết là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào
tạo đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm phát triển từ khi nền cộng hoà được
thiết lập. Trong quá trình cách mạng, giáo dục và đào tạo đã góp phần đào tạo lớp
người lao động mới có lí tưởng cách mạng, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vượt
qua mọi khó khăn, có sức khoẻ và có kỉ luật. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến,
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong thời kì đổi mới càng chứng
tỏ giáo dục, đào tạo nước ta đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã

người và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và
đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền giáo dục
lành mạnh”.
2.3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là tuyệt đối hoá những thành công trong hoạt động thực
tiễn trước đây thành nguyên tắc hoạt động trong hiện tại khi những yếu tố và điều
kiện đã thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh
Nhóm 5 – CH19A 12
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
nghiệm là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn cụ thể với
những yếu tố và điều kiện đơn giản, chưa biến đổi hoặc đã biến đổi nhưng chưa
được phản ánh kịp thời. Những tri thức kinh nghiệm góp phần tạo nên những thành
công không nhỏ, đặc biệt thành công trong quá khứ đã củng cố niềm tin để tiếp tục
khẳng định giá trị của các kinh nghiệm. Những thành công tiếp theo khi tiếp tục vận
dụng những kinh nghiệm cũ vào hiện tại đã tạo nên chủ nghĩa kinh nghiệm. Khi các
yếu tố, các điều kiện đã thay đổi hoặc có những diễn biến phức tạp nhưng vẫn tiếp
tục vận dụng kinh nghiệm cũ thì nó trở thành bệnh kinh nghiệm.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ rất
thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống - nền kinh tế chỉ dựa vào
kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức dân gian. Điều
đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của người Việt Nam chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của
bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian
dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỉ lại,
dựa dẫm là một trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa - tuyệt
đối hoá kinh nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên. Cơ chế hoạt động của từng lĩnh
vực chưa được luật hoá, việc tổ chức thực hiện tuỳ tiện dẫn đến chủ nghĩa kinh
nghiệm.

nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, hoặc theo học thuyết của
Mác thì phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện
nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế
mà không thấy được rằng “Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ”, sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động
qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Chính
những sai lầm này là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng
kinh tế trầm trọng trong thời kỳ trước đổi mới.
Bệnh giáo điều có căn nguyên sâu xa của nó. Trước hết là do hiểu lý luận còn
nông cạn, chưa có thực tiễn vận dụng lý luận nên khi thực tiễn biến đổi hoặc xuất
hiện thực tiễn mới thì lý luận trở thành giáo điều. Mặt khác, do tính tập trung hoá
cả trong lĩnh vực lý luận đã làm mất đi tính sáng tạo, sinh động của lý luận. Quá
trình đó lặp đi lặp lại một thời gian dài đã trở thành đường mòn trong tư duy của
cán bộ kể cả cán bộ khoa học. Những gì trên chưa khái quát, chưa có ý kiến hoặc
chưa được bổ sung bởi cơ quan có thẩm quyền đều bị phủ quyết tạo cho cán bộ
Nhóm 5 – CH19A 14
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
bệnh giáo điều. Thứ nữa, do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn. Vận dụng lý luận vào
hoạt động thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là vận dụng cái chung vào cái riêng một cách
linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết trích dẫn, thậm chí chỉ vận dụng lý luận nhưng
không quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.
Bệnh giáo điều đặc biệt nguy hiểm. Do giáo điều mà lý luận không mang lại
hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trò của lý luận
nói chung, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng. Đó là một trong những căn nguyên dẫn đến sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở một số nước, dẫn đến khủng hoảng (mất lòng tin) đối với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn mà cốt lõi là thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn chân lý của

bổ sung và phát triển liên tục qua các đại hội Đảng VII, VIII, IX, X. Qua hơn 20 năm
thực hiện đường lối đổi mới Đảng và nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to
lớn về mọi mặt, mang nhiều ý nghĩa lịch sử.
3.1.1. Kinh tế
Trong giai đoạn đổi mới từ sau 1986, Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế là
trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Tư tưởng chủ đạo của đường
lối đổi mới kinh tế là: giải phóng mạnh mẽ mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác
tốt và có hiệu quả mọi khả năng của đất nước, của mọi thành phần kinh tế; trên cơ
sở phát huy các nguồn lực trong nước là chính, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút
mạnh mẽ và có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài; hình thành một cơ cấu kinh tế
hợp lý; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và đổi mới quan
hệ sản xuất (cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) nhằm
bảo đảm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Mọi sự tăng trưởng và phát triển
đều hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Đại hội VI (12/1986) xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế cho những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
1- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ;
2- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
3- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
Nhờ có định hướng đúng đắn này mà trong 20 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn.
Nhóm 5 – CH19A 17
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
• 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu
phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong
chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ

46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng
tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá
trị xuất khẩu.
• Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công
nghệ ngày càng hiện đại.
• Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1%
năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông
Nhóm 5 – CH19A 18
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn
pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày
càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
• Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng
theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và
trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
• Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38%
GDP của cả nước.
• Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối
quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp
vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh

Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp,
ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy
mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
Kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã được
nâng cao
Với chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển,
Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận,
cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
• Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
• Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm 10
nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10-
2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
• Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu
Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
• Mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao
động, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung
bốn năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77
tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm khoảng 14,6%.
3.1.2. Thành tựu về văn hóa, xã hội và con người
Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội,
con người luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển
văn hoá, xã hội và con người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng: Việt
Nam là tấm gương sáng trong việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải

thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong
trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo
dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng
đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm
Nhóm 5 – CH19A 21
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là
13,3%.
Khoa học-công nghệ và tiềm lực khoa học-công nghệ có bước phát triển
nhất định.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong
thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông
nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ
được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70
nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao
gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp phần cung
cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh
tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước
ngoài.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp
đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi,
cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công
bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi
năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức
dưới trung bình (0,498 năm 1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm 2002).
Năm 2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều
tra. Năm 2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được
điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người
thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002 vượt

Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông
ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể,
những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ
chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo
đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ - hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư
nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao
đẳng, đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa
Nhóm 5 – CH19A 23
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
học. Đây là một lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn
nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đưa ra đường lối
đổi mới kịp thời, phù hợp, thì hiện tại vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế trong sự
vận dụng nguyên lý này.
Mặt hạn chế lớn nhất, dễ nhận thấy nhất là trong việc ban hành chính sách,
pháp luật nghị định. Chính sách, luật pháp thì có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế,
đời sống của nhân dân, những chính sách, luật pháp được đưa ra không phù hợp,
không đảm bảo thực hiện được vai trò của nó sẽ để lại những hệ lụy rất phức tạp
cho xã hội.
Trong thời gian qua, có rất nhiều chính sách được ban hành không xuất phát
từ thực tiễn, không lấy thực tiễn làm mục tiêu, động lực. Mỗi một chính sách hoặc
một kiến nghị nào đó được đề xuất đều phải hướng đến mục đích duy nhất đó là
khắc phục những tồn tại đã, đang hoặc sẽ xuất hiện trong thực tiễn xã hội. Thế
nhưng, đáng tiếc, đã có không ít chính sách hoặc các đề xuất đã hoặc manh nha
hình thành phải chết yểu hoặc ban hành nhưng không thể áp dụng.
Điển hình mới nhất cho việc chính sách được ban hành nhưng không thể áp
dụng trong thực tiễn và đã phải bãi bỏ đó là Thông tư 33 của Bộ NN và PTNT quy

pháp luật.
Bất kỳ một chính sách nào muốn đạt được hiệu lực, hiệu quả cao nhất bắt
buộc phải xuất phát từ cuộc sống, bám sát cuộc sống và phải phục vụ cho đời sống.
Thực tế đã chứng minh có không ít chính sách khi mới ban hành đã vấp phải sự
phản đối rất lớn. Nhưng thực tiễn lại khẳng định: việc phải ban hành chính sách đó
là đúng đắn và cần thiết – thì đương nhiên, người dân sẽ ủng hộ và chính sách đó
có sức sống.
Thực trạng này đòi hỏi Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan chính phủ phải nâng
cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng luật, thay đổi tư duy làm chính sách và nhất
là trong quá trình soạn thảo chính sách, trước khi ban hành, phải thực hiện đầy đủ các
bước nghiên cứu, soạn thảo cơ bản: đánh giá tổng kết thực trạng vấn đề, đặt ra mục
Nhóm 5 – CH19A 25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status