ĐỀ CƯƠNG cơ sở văn hóa VIỆT NAM - Pdf 14

1
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
Câu 1:Khái niệm văn hoá, cấu trúc của văn hoá?
 Khái niệm văn hoá:
Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá
đưa ra các khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa có một khái
niệm nào về văn hoá được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái
niệm và định nghĩa về văn hoá như sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Cố TT Phạm Văn Đồng: Văn hóa bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình
cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ
bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh.
PGS.TS Trần Ngọc Thêm: Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự
tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội của mình.
UNESCO: Văn hoá hôm nay có thể coi là một tổng thể những nét riêng biệt tinh
thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những phong tục và
những tín ngưỡng.
 Cấu trúc văn hoá :
- Văn hoá sản xuất: Nền văn minh nông nghiệp xóm làng với không gian định
hình sinh tồn và phát triển là miền Đồng Bằng sông nước tựa núi tiếp biển.
- Văn hoá vũ trang: Nghệ thuật chiến đấu của người Việt là cơ động bằng thuyền
- thạo thuỷ chiến và dung dân binh hỗ trợ quân binh.
- Văn hoá sinh hoạt: Lối sống của từng cộng đồng, từng gia đình và từng cá nhân
được thể hiện qua cách ăn, cách mặc ,cách ở.

Cá bạo về nước
3
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
Cơm tẻ mẹ ruột "
Hay: "Đói thì thèm thịt thèm xôi
Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường "
Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi " bữa ăn là bữa cơm" coi cây lúa là
tiêu chuẩn của cái đẹp (em xinh là xinh như cây lúa).
+ Trong bữa ăn của người Việt Nam sau lúa gạo thì đến " Rau Quả " nằm ở 1
trong những trung tâm trồng trọng, Việt Nam có 1 danh mục rau quả mùa nào thức ấy,
phong phú vô cùng . Đối với người Việt Nam thì " đói ăn rau, đau uống thuốc " là chuyện
tất nhiên.
" Ăn cơm không rau như người già chết ko kèn trống "
Hay " Ăn cơm không rau như đánh nhau ko có người đỡ ".
Tuy nhiên nói đến rau trong bữa ăn không thể ko nhắc đến 2 món đặc thù là rau
muống và dưa cà.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Các loại gia vị đa dạng như: hành , gừng, tỏi , ớt, tiêu, húng, mùi, răm, thì là
cũng ko thể thiếu đc trong bữa ăn của người Việt
+ Đứng thứ 3 trong cơ cấu ăn và đứng hàng đầu thức ăn động vật của người Việt
là các loại thủy sản, sản phẩm của vùng sông nước. Sau " Cơm rau" thì " Cơm cá" đó là
món ăn thông dụng nhất " Có cá đổ vạ cho cơm , con cá đánh ngã bát cơm là thế". Từ các
loại thủy sản người việt có thể chế ra nhiều loại nước chầm đc biệt như các loại nước
mắm, thiếu nước mắm chưa thể thành bữa cơm, cơm nước mắm ko phải lúc nào cũng
đồng nghĩa với bình dân, các bà phi tần nhà nguyễn từng lấy nc mắm để tiến vua. Từ
tiếng việt danh từ " Nước mắm " đã đi vào ngôn ngữ loài người và có mặt trong từ điển
bách khoa đông tây.
+ Ở vị trí cuối cùng trong cơ cấu bữa ăn người Việt là thịt, phổ biến như thịt gà,
lợn, trâu, bò Đặc sản bình dân như thịt chó và các sơn hào hải vị khác.

* Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn
5
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
* Tính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn : truyền thống sử dụng dụng cụ là
đôi đũa, đó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt xuất phát từ
những thứ ăn những thứ ko thể dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá, nước
mắm )
* Biểu hiện ko kém quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn là ở chỗ
người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chúng Âm- Dương bao gồm 3 mặt
liên quan mật thiết với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân bình âm dương trong cơ
thể và sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên.
+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thức
ăn theo 5 mức âm dương ứng với ngũ hành: hàn ( lạnh ), nhiệt ( nóng ), ôn ( ẩm ), lương (
mát ), bình ( trung tính ).
+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món chế biến
có tính đến sự quân bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn như những vị
thuốc để điểu chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Mọi bệnh tật đều do mất
quân bình âm dương vì vậy mọi người bị ốm do quá ân cần ăn đồ dương và ngược lại ốm
do quá dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng bằng đã mất.
+ Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường thì người Việt
có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu , theo mùa. Ăn theo mùa tức là tận dụng tối đa
môi trường tự nhiên để phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng
biện chứng giữa con người với môi trường. Thức ăn theo mùa hay mùa nào thức ấy "
Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè "
+ Tình biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời
tiết , phải đúng mùa, và người Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá
trị ( chuối sau, cau trước,đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm ). Thời điểm có giá trị
còn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân
bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu chất dinh dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ong non )
b) Mặc

định cư ổn định: " Có an cư thì mới có lạc nghiệp " hay " thứ nhất dương cơ, thứ nhì âm
phần ". Do ngôi nhà chiếm vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống nên Nhà ( chố ở )
được đồng nhất với gia đình.
7
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
Ngôi nhà ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
+. Do khu vực cư trú nên ngôi nhà của người Việt thường gắn liền với môi trường
sông nước.
Những người sống bằng nghề sông nước ( chài lưới, chở đò ) thường lấy thuyền,
bè là nhà ở gọi là nhà thuyền, nhà bè, nhiều gia đình gọi là xóm chài và làng chài. Tuy
vậy nhưng họ vẫn có nhà trên sàn trên mặt nước để ứng phó với việc ngập lụt và khí hậu
nhiệt đới với độ ẩm cao thêm vào đó là hình mái cong. Mái cong ngoài ý nghĩa là con
thuyền thì ko có tác dụng thực tế gì, tạo dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay
bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hòa mình vào thiên nhiên.
+. Để đối phó với môi trường tự nhiên tiêu chuẩn ngôi nhà ở Việt Nam về mặt cấu
trúc là nhà cao cửa rộng.
Kiên trúc mở tạo không gian thoáng mát, giao hòa với tự nhiên, cái cao của ngôi
nhà VN bao gồm 2 yêu cầu : sàn và nền cao so với mặt đất và mái cao so với sàn/ nền.
Nhà cao mà cửa ko cao mà phải rộng, của ko cao để tránh ảnh nắng chiếu xiên vào còn
cửa rộng để đón gió mát và tránh nóng.
+. Biện pháp quan trong ko kém là chọn hướng nhà, chọn đất, tận dụng tối đa thế
mạnh của môi trường tự nhiên.
Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam " Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam ".
Nhưng tùy thuộc vào địa hình địa vật xung quanh vào sự có mặt của núi rừng, của sông,
của con đường " Phong" và " Thủy" là 2 yếu tô quan trọng nhất, thuật phong thủy được
xây dựng trên âm dương ngũ hành do vậy mà nhà phong thủy cần nắm vững hướng gió
và hướng nước để âm dương được điều hòa là tốt nhất. Tuy nhiên trong việc " chọn nơi
mà ở " thì người Việt còn có tính cộng đồng mà ko thể quên làng " Nhất cận thị, nhị cận
lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền "
+. Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà VN truyền thống là rất động


Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích
hợp nhiều nguồn gốc tạo ra văn hóa Việt Nam. Đó là quá trình:Văn hóa ứng xử với môi
trường xã hội đó chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều nguồn gốc bộc lộ
tính chủ động và khả năng chi phối, tác dộng trở lại của văn hóa bản địa trong quá trình
9
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
tiếp nhận. Dung hợp giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại lai
Sự dung hợp của các hiện tượng văn hóa ngoại lai với nhau
tổng hợp các tôn giáo – xuất hiện đạo Cao Đài+ Sự tồn tại của Tam giáo (Phật giáo,
Lão giáo, Nho giáo) cao hơn là sự tích hợp văn hóa Đông – Tây với học thuyết Mác. Sự
dung hợp VH Đông – Tây
Chính sự dung hòa, hiếu hòa, linh hoạt đã làm các yếu tố VH ngoại lai sau khi được tiếp
nhận không hề xung đột.
Ứng xử là một biểu hiện của sự giao tiếp, giữa con người với con người, giữa cá
nhân với cộng đồng xã hội. Đồng thời nó cũng là sự phản ứng của người này trước sự tác
động của người khác trong một tình huống nhất định, một hoàn cảnh nhất định được thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong
mối quan hệ giữa con người với nhau.
Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được
hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân đó trong một
môi trường gia đình và xã hội nhất định. Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị
văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với
những người chung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè và thậm chí ngay cả với
chính bản thân mình. Chúng ta bàn nhiều về đạo đức, nhân cách của một con người,
nhưng ít ai bàn đến phép lịch sự, cách đối nhân, xử thế trong các mối quan hệ giao tiếp
diễn ra hàng ngày trong gia đình, và ngoài xã hội. Con người chúng ta sống giữa các mối
quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các mối quan hệ này có ảnh hưởng đến sự hình thành,
phát triển nhân cách và xu hướng hành động của họ. Chính cuộc sống đòi hỏi mỗi người
phải có cách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình giao tiếp với các

chúng ta ngày càng trưởng thành lên và có kinh nghiệm sống ngày càng phong phú. Cách
đối nhân xử thế là thể hiện vốn sống của mỗi cá nhân, sự hiểu biết của mỗi người về các
mối quan hệ xã hội người với người. Câu 3: Chức năng cơ bản của văn hoá
11
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
Văn hoá có 5 chức năng là: Chức năng giáo dục; chức năng nhận thức dự báo;
chức năng thẩm mỹ và chức năng giải trí, chức năng kế tục và phát triển lịch sử.
Nội dung cơ bản của các chức năng đó như sau:
- Chức năng giáo dục: là chức năng mà văn hoá thông qua các hoạt động, các sản phẩm
của mình nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của
con người, làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực theo những
chuẩn mực xã hội đề ra. Văn hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá
trị đã ổn định là truyền thống văn hoá mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các
giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ vậy, văn hoá
đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trong việc "trồng
người ". Với chức năng giáo dục, văn hoá tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử mỗi
dân tộc cũng như lịch sử nhân loại. Văn hoá duy trì và phát triển bản sắc dân tộc và là cầu
nối hữu nghị gắn bó các dân tộc, gắn kết các thế hệ trong mục tiêu hướng đến cái Chân-
Thiện- Mỹ. Văn hoá là "gien" xã hội di truyền phẩm chất cộng đồng người lại cho các thế
hệ sau.
- Chức năng nhận thức, dự báo: Là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động văn
hoá. Bởi, con người không có nhận thức thì không thể có bất cứ một hành động văn hoá
nào. Nhưng quá trình nhận thức này của con người trong các hoạt động văn hóa lại được
thông qua đặc trưng, đặc thù của văn hóa. Nâng cao trình độ nhận thức của con người
chính là phát huy những tiềm năng ở con người.
- Chức năng thẩm mỹ: Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng
thụ, hướng tới cái đẹp. Con người nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp cho nên

 Tôn giáo
Câu 5: Khái niệm ngôn ngữ . Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ
Việt Nam
 Khái niệm ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là hệ thống để giao thiệp hay suy luận dùng một cách biểu diễn, phép
ẩn dụ, và một loại ngữ pháp theo lôgic, mỗi cái đó bao hàm một tiêu chuẩn hay sự thật
thuộc lịch sử và siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ
13
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
viết, và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía
cạnh này nằm sát quá, cho nên khó phân biệt nó.
Ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ pháp”. Ngôn ngữ là công cụ
người ta dùng để biểu đạt ý nghĩa và tình cảm của mình đối với người khác, qua đó để
người ta hiểu nhau.
 Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam:
Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể
hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài
hòa. Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số
biểu trưng. Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy
mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện
khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.
Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất GIÀU CHẤT
BIỂU CẢM – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình cảm. Về mặt từ ngữ, chất
biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa,
thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh
màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè,
xanh lét… Bên cạnh màu đỏ trung tính thì có đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ
hoe…Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt
Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư,
nhỉ, nhé, chăng, chớ, hả, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” mang sắc thái đánh giá

thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn
xuôi và phương pháp tả thực) bằng hình thức tĩnh (cấu trúc danh từ, ngữ pháp hình thức
chặt chẽ).

Câu 5: Khái niệm lễ hội, phân tích những giá trị của lễ hội cổ truyền Việt
Nam, phân tích cấu trúc của lễ hội cổ truyền Việt Nam.
Khái niệm: Lễ hội là hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày
lao động vất vả hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của
đất nước, hoặc liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân hoặc chỉ đơn
15
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
thuần là những hoạt động có tính chất vui chơi, giải trí nên có sức hấp dẫn cao đối với
khách.
Những giá trị của lễ hội cổ truyền Việt Nam:
Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ
hội cổ truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ
truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội
hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:
Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là
cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội
chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế) đến cộng đồng
nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng
đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như
gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi
ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên
nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và
hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm

thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường
như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu,
ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật
chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén,
“trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán” Tất cả những cái đó hạn chế khả năng
hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại
chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có
sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.
Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được
tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây
17
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, được
sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày
tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức
trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường Tất cả
đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói
cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và
cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.
Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở
nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí,
sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và
tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc.
Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong
không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường
dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá
của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát

hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái
làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu
nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng
không có văn hoá Việt Nam.
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá
truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam
lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc
Cấu trúc của lễ hội cổ truyền Việt Nam: Bao gồm 2 phần chính : phần lễ(yếu tố
chính) và phần hội ( yếu tố phát sinh)
Phần lễ:
• Phần chính, mang ý nghĩa tạ ơn và xin thần linh bảo trợ
19
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
• Gồm các nghi thức (dâng rượu, dâng trà, dâng hoa quả, dâng thức ăn mặn)
• Mỗi lễ hội chứa đựng ý nghĩa riêng
Phần hội là phần khác nhau giữa các lễ hội . Phần đáng lưu ý là trò diễn. Trò diễn
là hoạt động mang tính nghi lễ, diễn lại toàn bộ hay một phần hoạt động của nhân vật
được phụng thờ. Chẳng hạn trò diễn Thánh Gióng đánh giặc Ân trong hội Gióng hay
Quang Trung đại phá quân Thanh trong lễ hội Đống Đa.
• Phần trò chơi, thi đấu, biểu diễn liên quan đến nhân vật thờ phụng
• Trình tự: từ nơi thờ vọng đến nơi diễn ra một sự kiện nào liên quan nhân
vật thờ phụng . Các trò diễn trong lễ hội là các lớp văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ
lịch sử khác nhau lắng đọng lại, phản ánh những sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng
lúa nước gắn kết với nhân dân được phụng thờ.
• Các trò chơi gắn với nhiều thời kỳ được lắng đọng lại, phản ánh cách sinh
hoạt của dân cư và nhân vật thờ phụng
• Các trò chơi gắn với ước vọng con người. Ví dụ: Cầu mưa (đốt pháo); Cầu
an (Thả diều); Ước vọng nhanh nhẹn, khéo léo (thổi cơm, dọn cỗ,…); …

Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh
Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã
hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của Nho
giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến là muốn tồn tại thì phải truyền bá Nho giáo đến
người dân, củng cố quyền lực phong kiến lớn mạnh và không bị giặc ngoài tấn công.
Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho
giáo cần được tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần, trung
với vua không tách rời trung với nước, vì đó là những ông vua thực sự điều hành cuộc
chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam, “trung” thường
gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách nhiệm của con người đối với Tổ quốc, quê hương,
làng xóm. Cũng chính vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung”
với “nghĩa”. Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì
phải quan tâm đến con người, đến nhân dân và do đó, “nghĩa” không tách rời “nhân”.
Ngọn cờ nhân nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân khỏi áp bức của quân xâm
lược.
[2]

Thời kỳ khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không ngừng củng
cố và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ 19, yêu cầu tất yếu này dần như bị suy sụp và
21
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
dần nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phương Tây của thực dân Pháp, tuy
nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh hưởng đối với những nhà yêu nước cách mạng như
Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh,
ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHÂN SINH
Nho giáo đều ảnh hưởng đến con người, giúp cho người ta hiếu học và thành công
hơn trong xã hội, đặc biệt, bản tính "Thiện" luôn đề cao các giá trị về chính trị, phẩm chất
quý giá, phạm trù với chữ "Nhân" do Khổng Tử để lại, chữ "Nhân" được coi là nguyên lý
để quy định bản tính, quan hệ giữa người với người, từ quý tộc đến nông dân
[3]

- Nằm ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh. Phổ tự nhiên VN: Nhiệt
- Ẩm – Gió mùa.
- Hệ sinh thái phồn tạp: Đa dạng sinh học, thực vật phát triển hơn động vật.
- Địa hình Việt Nam: Dài Bắc – Nam; Hẹp Tây – Đông; Đi từ Tây sang Đông có
Núi - Đồi - Thung - Châu thổ - Ven biển - Biển - Hải đảo; Đi từ Bắc vào Nam là đèo cắt
ngang.
- Đa dạng môi trường sinh thái à Đa dạng văn hoá: Văn hoá sông nước và thực
vật.
+ Văn hoá thực vật: Bữa cơm (Cơm – Rau - Cá), tục thờ cây.
+ Văn hoá sông nước: Kỹ thuật canh tác (xây đe, đập, kênh); Cư trú (Làng ven
sông); Ứng xử (Linh hoạt như nước); Sinh hoạt cộng đồng (Cua ghe, đua thuyền ).
- Khó khăn: Thiên tai, lũ lụt, bão à tạo tính kiên cường, tinh thần cố kết cộng
đồng…
Câu 8: phật giáo và khai thác giá trị trong phật giáo
Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ vào Việt
Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên
thủy và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu
rộng nhất ở Việt Nam.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật
giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong
cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào
23
Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo
Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả.
Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại
phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của
các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu
[5]

Phạm Văn Điện. K47T1. Đại học Thương Mại
không thì là sai. Đây gọi là khế cơ là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng
miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản
địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của
riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy
trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc
Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các
triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh
điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo
Việt Nam
[5]
.
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là
thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp:
Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này
thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện,
trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật.
Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẽ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là
tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ
này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu
Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân
tộc vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã
khuất.
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau.
Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn
Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông
biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di

Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa
Hương, Bà chúa Ba).
Tính linh hoạt]


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status