Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam Á - Pdf 14

Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:1 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Chương I :
Những nội dung cơ bản của liên kết kinh tế quốc tế và xu hướng vận
động của liên kết kinh tế quốc tế
I. Những nội dung cơ bản của liên kết kinh tế quốc tế
1. Khái niệm và bản chất
Bước chân vào thế kỷ 21, các quốc gia dân tộc đang sẵn sàng cho một kỷ
nguyên mới mà một trong những đặc trưng cơ bản của nó là xu thế hợp tác, liên
kết giữa các quốc gia để giải quyết các vấn đề kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội và
môi trường. Ngày nay trong quá trình phát triển của mình, các quốc gia trên thế
giới đang từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm
từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau,
đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu
hiện của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra hết sức sôi động và đặc
biệt quan trọng trong những năm gần đây.
Khái niệm:
Liên kết kinh tế quốc tế hay còn gọi là nhất thể hoá kinh tế quốc tế là một
hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá có tính chất quốc tế đối với quá
trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế quốc tế. Đó là sự thành lập một tổ hợp
kinh tế quốc tế của một nhóm thành viên nhằm tăng cường phối hợp và điều chỉnh
lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa
các bên và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu. Quá trình liên kết kinh tế quốc tế đưa tới việc hình thành một thực thể kinh tế
mới ở cấp độ cao hơn với các mối quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp và đa dạng.

kinh tế xã hội. Chính điều đó đưa đến chức năng điều chỉnh và làm xích lại gần
nhau giữa các nền kinh tế quốc gia của liên kết kinh tế quốc tế. Thông qua đó hình
thành nên liên kết kinh tế quốc tế có tác dụng bổ sung và tạo điều kiện cho các
quan hệ kinh tế quốc tế phát triển một cách thuận lợi hơn.
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:3 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
*Kết quả của quá trình liên kết kinh tế quốc tế lớn hơn, rõ ràng hơn và hình
thành nên các tổ chức liên minh kinh tế quốc tế gắn kết các nước một cách chặt
chẽ.
*Trên thị trường thế giới đang diễn ra sự đấu tranh gay gắt giữa xu hướng tự
do hóa thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch. Các hình thức của chủ nghĩa
mậu dịch mới ra đời và có nguy cơ gia tăng. Các cuộc chiến tranh kinh tế giữa các
trung tâm kinh tế lớn cũng có xu hướng mở rộng. Trong điều kiện đó, liên kết kinh
tế quốc tế có vai trò như một giải pháp trung hòa để tạo nên các khu vực thị trường
tự do cho các thành viên. Các liên kết kinh tế quốc tế trước hết hướng vào việc tạo
lập thị trường quốc tế khu vực, dỡ bỏ dần các ngăn trở về hàng rào thuế quan và
phi thuế quan giữa các thành viên, tạo nên khuân khổ kinh tế và pháp lý phù hợp
cho mậu dịch quốc tế gia tăng, củng cố và mở rộng quan hệ thị trường.
*Liên kết kinh tế quốc tế luôn luôn là hành động tự giác của các thành viên
nhằm thực hiện việc điều chỉnh có ý thức và phối hợp các chương trình phát triển
kinh tế với những thoả thuận có đi có lại giữa các thành viên. Nó là bước quá độ
trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa. Trong
giai đoạn hiện nay, việc phát triển các liên kết kinh tế khu vực ( ví dụ như các khối
EU, NAFTA, ASEAN, APEC ) thể hiện cấp độ khu vực hóa nền kinh tế thế giới

cùng một tiểu vùng hay trong khuôn khổ khu vực tạo điều kiện cho các nước thành
viên phát huy những mặt mạnh của riêng mình, phát triển tối đa nội lực bổ sung
lẫn nhau để phát triển và đưa cả khu vực phát triển tương đối đồng đều, tăng cường
khả năng cạnh tranh và lợi thế không chỉ của mỗi thành viên mà của cả khu vực
trong cuộc đua kinh tế, ngăn chặn những can thiệp từ bên ngoài và nâng cao tự
cường dân tộc.
Thứ hai, liên kết kinh tế quốc tế giúp cho việc tiết kiệm lao động xã hội
.Mục tiêu này được làm rõ thông qua việc tham gia vào khối liên kết kinh tế khu
vực của các quốc gia. Các khối liên kết kinh tế tạo ra một môi trường thương mại
ưu đãi trong khu vực dựa trên cơ sở loại trừ các rào chắn thuế quan và phi thuế
quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chu chuyển thương mại giữa các nước thành
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:5 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
viên. Gắn liền với biện pháp giảm tỷ suất thuế quan, các quốc gia còn cam kết
dành cho nhau những ưu đãi trong buôn bán như ưu đãi về xuất xứ, về thủ tục hải
quan, thống nhất về hệ thống điều hòa thuế quan HS, thống nhất về biểu mẫu kê
khai hải quan, về công nhận chất lượng sản phẩm, xoá bỏ các hạn chế về số lượng.
Các biện pháp này góp phần hạ chi phí cho từng thành viên và sự lớn mạnh của cả
cộng đồng.
Ngoài ra, liên kết kinh tế quốc tế còn cho phép khai thác triệt để lợi thế so
sánh của các quốc gia, tạo khả năng đạt được quy mô tối ưu cho từng ngành sản
xuất và sử dụng hợp lý hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc thành lập các
liên minh kinh tế hay liên minh thuế quan cũng tiết kiệm đáng kể các chi phí quản
lý do loại bỏ các biện pháp kiểm tra hành chính ở biên giới, các thủ tục hải quan

cấp độ:
* Liên kết khu vực: Sự liên minh trong cùng một khu vực địa lý
Ví dụ: ASEAN, EU, NAFTA, MERCOSUR
* Liên kết kinh tế liên khu vực: Sự liên minh kinh tế ở những khu vực khác
nhau. Ví dụ : APEC, ASEM
* Liên kết kinh tế toàn cầu:WTO
Liên kết nhỏ(Micro intergration): Là loại hình liên kết mà chủ thể tham gia
là các công ty, tập đoàn trên cơ sở ký kết các hợp đồng hợp tác kinh doanh để
hình thành nên các công ty quốc tế.
Liên kết giữa các công ty được tiến hành ở các khâu khác nhau, thí dụ như
liên kết trong quá trình nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm, chê tạo sản phẩm, chi tiết
sản phẩm, liên kết trong tiêu thụ sản phẩm, quảng cáo và thực hiện các dịch vụ
khác.
Các hình thức liên kết nhỏ
- Căn cứ vào nguồn để tạo vốn pháp định:
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:7 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
+ Công ty đa quốc gia(Multinational Corporation - MNC): Là công ty độc
quyền mà vốn sở hữu của công ty mẹ thuộc sở hữu của hai hay nhiều nước khác
nhau, hoạt động được triển khai trên nhiều nước trên thế giới.
Ví dụ: công ty Royal Dutch Shell (Anh- Hà lan), công ty Unilever
+ Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation-TNC): Là công ty mà
vốn pháp định của công ty mẹ thuộc cùng một nước, còn đi vào hoạt động kinh
doanh được triển khai ở nhiều nước bằng cách phụ thuộc các công ty xí nghiệp vào

khổng lồ bao gồm nhiều công ty, xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau, bao gồm cả
vận tải, thương nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm Mục đích của các Cônglômêrat là
tập trung vốn, công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, tránh bớt rủi ro và các
ngành hỗ trợ cho nhau nâng cao hiệu quả sản xuất.
3.2. Căn cứ vào đối tượng và mục đích của liên kết kinh tế quốc tế có
thể phân chia liên kết thành các dạng: Khu mậu dịch tự do, liên minh thuế
quan, thị trường chung, liên minh kinh tế và liên minh tiền tệ.
3.2.1. Khu vực mậu dịch tự do(Free Trade Area- FTA)
Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều nước nhằm mục đích tự do
hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó (ngôn phẩm hoặc
công nghệ phẩm). Biện pháp sử dụng là bãi miễn thành viên để hình thành một thị
trường thống nhất nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại
thương độc lập đối với các nước ngoài liên minh. Thí dụ khu vực mậu dịch tự do
Châu Âu EFTA, khu vực tự do Bắc Mỹ NAFTA, khu vực tự do AFTA
Mục đích của khu vực mậu dịch tự do nhằm:
*Khuyến khích phát triển thương mại trong nội bộ khối, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
*Thu hút vốn đầu tư từ các nước bên ngoài khối cũng như trong nội bộ khối.
3.2.2. Liên minh thuế quan (Custom union)
Đây là một liên minh quốc tế với nội dung bãi miễn thuế quan và những hạn
chế về mậu dịch khác giữa các nước thành viên. Tuy nhiên liên minh thuế quan có
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:9 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
đặc điểm khác với khu vực mậu dịch tự do là đối với liên minh thuế quan người ta

- Trang:10 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
dự trữ và phát hành đồng tiền tập thể cho các nước trong liên minh. Trong thực tế,
liên minh tiền tệ là một loại hình gặp nhiều khó khăn trong quá trình tổ chức và
hoạt động của chúng.
4. Lợi ích của liên kết kinh tế quốc tế
Liên kết kinh tế quốc tế đưa lại những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người
sản xuất và người tiêu dùng
Một là: Tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước, mở rộng khả năng xuất
nhập khẩu hàng hóa của các nước thành viên trong liên minh với các nước, các khu
vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các
nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch
tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các
ngành trước hết là công nghiệp của nước chủ nhà có chi phí cao bằng những ngành
có chi phí thấp hơn của những quốc gia nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện
này lợi ích của người tiêu dùng được tăng lên nhờ hàng hóa của các nước thành
viên đưa vào nước chủ nhà luôn nhận được sự ưu đãi. Giá cả hàng hóa hạ xuống
làm người dân ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hóa lớn hơn với
mức chi phí thấp hơn.
Hai là: Liên kết kinh tế quốc tế góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch.
Sự chuyển hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan vì khi
đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên
thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn. Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên
minh tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với
giá thấp hơn nhưng nay được thay bằng việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại
của các quốc gia trong liên minh mà giá lại cao hơn (do được hưởng chế độ ưu đãi
thuế quan).
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18


Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:12 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
động theo ngành và theo sản phẩm đang phân công lao động theo chi tiêu sản
phẩm và theo quy trình công nghệ. điều này cho thấy sự khác biệt về điều kiện tự
nhiên không còn đóng vai trò quyết định đối với phương hướng tham gia vào phân
công lao động quốc tế, trái lại chính khả năng về công nghệ mới có vai trò quyết
định.
Sự phát triển của phân công lao động quốc tế cùng với những thành tựu mới
của cách mạng khoa học và công nghệ đưa tới sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế
của mỗi quốc gia. Nhiều ngành công nghiệp truyền thống đang bước sang giai
đoạn mãn chiều xế bóng (như luyện kim đen, chế tạo cơ khí thông thường, đóng
tàu ) trong khi đó thì lại xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới như các ngành
kỹ thuật cao đòi hỏi phải có sự phối hợp, liên kết giữa nhiều quốc gia.
Một đặc điểm nữa của phân công lao động quốc tế thúc đẩy sự hình thành
các liên kết kinh tế quốc tế là sự xuất hiện và phát triển ngày càng nhanh các hình
thức hợp tác về kinh tế, khoa học và công nghệ. Nếu như trước đây, các quan hệ
kinh tế quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế thể hiện tập trung ở hoạt động ngoại
thương thì ngày nay các quan hệ kinh tế quốc tế đã vươn sang các lĩnh vực nghiên
cứu, sáng chế, chuyển giao công nghệ, hợp tác đầu tư, hợp tác sản xuất Điều đó
có nghĩa là các quan hệ kinh tế quốc tế được phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu, nó mang nội dung toàn diện hơn và đòi hỏi sự hợp tác ở những khuôn khổ
rộng hơn, ở cấp độ cao hơn.
Dưới sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, cơ cấu ngành và cơ
cấu địa lý trong phân công lao động quốc tế đang có sự dịch chuyển đáng kể và

thị trường theo khu vực để bảo vệ lợi ích cho mỗi bên.
Sự phát triển của các công ty đa quốc gia và vai trò ngày càng lớn của nó
trong phân công lao động quốc tế đã tác động mạnh đến việc hình thành và phát
triển của liên kết kinh tế quốc tế. Các công ty đa quốc gia không những nắm trong
tay những nguồn vốn lớn, các công nghệ hiện đại, có trình độ quản lý tiên tiến mà
nó còn mang tính đa sở hữu và gây ảnh hưởng đến các chương trình phát triển đa
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:14 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
quốc gia và liên quốc gia. Hoạt động của các công ty đa quốc gia không những tạo
tiền đề vật chất mà còn thúc đẩy về mặt tổ chức cho sự liên kết giữa các nước
nhằm thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế.
Cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật, phân
công lao động quốc tế ngày càng hoàn thiện và tất yếu sẽ dẫn đến việc hình thành
các liên kết kinh tế quốc tế - một hình thức phát triển chủ yếu trong xu thế toàn
cầu hóa - khu vực hóa kinh tế hiện nay.
5.2. Liên kết kinh tế quốc tế là kết quả của quá trình quốc tế hóa đời sống
kinh tế.
Trong quá trình phát triển gần một trăm năm qua, kinh tế thế giới có những
quy luật đặc thù của nó và dần dần xuất hiện một xu thế có tính chất toàn thể. Đó
chính là xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế. Quốc tế hóa đời sống kinh tế chính là
sự dựa vào nhau để cùng tồn tại, sự xâm nhập vào nhau ngày càng sâu của kinh tế
các nước trên thế giới. Trong thế kỷ 20, quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới
không ngừng được tăng lên và phạm vi ngày càng mở rộng, nội dung ngày càng
sâu sắc. Quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế khiến cho việc hợp tác và điều hòa

: thuế quan, tỷ suất hối đoái, vốn lưu động rồi trên cơ sở đó lại tiến hành liên
minh với các nước khác hoặc tập đoàn khác. Như vậy sự hợp tác giữa các nước với
nhau vốn rất phức tạp thì đã có thể dần dần đơn giản hóa thành sự hợp tác giữa
mấy tập đoàn kinh tế chủ yếu, đồng thời tạo điều kiện tốt cho sự hợp tác về kinh tế
và chính sách giữa các nước trong phạm vi quốc tế.
Thứ tư: Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế còn dẫn tới một yêu cầu
khách quan là cần phải tiến hành chuyên môn hoá giữa các quốc gia nhằm đạt tới
quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất. Chính dung lượng thị trường thế giới đòi
hỏi mỗi quốc gia phải biết tập trung vào một số ngành và sản phẩm nhất định mà
họ có lợi thế để đạt quy mô sản xuất tối ưu. Các quốc gia không chỉ trao đổi sản
phẩm hoàn thiện mà còn trao đổi từng bộ phận sản phẩm với nhau, tạo nên loại
hàng hóa mà các bộ phận được sản xuất từ nhiều nước. Tính thống nhất của nền
kinh tế thế giới làm cho toàn bộ quá trình sản xuất như một „dây chuyền quốc tế ”
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:16 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
cả về phạm vi và quy mô. Vì thế các liên kết kinh tế quốc tế ra đời nhằm đáp ứng
nhu càu liên kết với nhau để cùng phát triển của tất cả các quốc gia trên toàn thế
giới.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể thấy rằng ngày nay xu thế hoà
bình hợp tác liên kết cùng phát triển là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các
quốc gia dân tộc, trở thành một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của mỗi
quốc gia.
II. Xu hướng vận động của liên kết kinh tế quốc tế
Những năm gần đây, chúng ta đã được chứng kiến sự phát triển nhanh

1. Xu hướng mở rộng liên kết khu vực
Xu hướng mở rộng liên kết khu vực được thực hiện theo hai hướng: Mở
rộng không gian liên kết và mở rộng nội dung liên kết.
Mở rộng không gian liên kết bằng việc gia tăng số lượng thành viên
Do nhịp độ phát triển nhanh chóng của quá trình thị trường toàn cầu hoá là
một trong những phương diện cơ bản, xu thế mở rộng số lượng thành viên của các
tổ chức hợp tác kinh tế khu vực không còn đóng kín với số lượng thành viên ban
đầu.
Liên minh Châu âu - EU là một ví dụ tiêu biểu cho xu hướng mở rộng liên
kết khu vực. EU không chỉ dành riêng cho các nước Tây Âu. Cộng đồng kinh tế
Châu Âu - EEC bắt đầu với 6 thành viên (Pháp, Đức, Bỉ, Hà lan, Luycxămbua và
Italia) đã “mở cửa “ lần thứ nhất với việc gia nhập của ba nước Tây Bắc Âu(Anh,
Đan mạch, Ailen) ngày 1/1/1973 và sau đó lại” mở cửa “lần hai đón thêm ba nước
Nam Âu: Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, lần ba là Phần Lan, Thuỵ điển”. EU
bước vào thời kỳ gồm 15 thành viên, là bước tiến quan trọng trong tiến trình hoà
nhập Châu Âu.
Việc mở rộng EU sang phía Đông đang có nhiều hứa hẹn nhờ quyết định
chuyển từ ý tưởng muốn kết nạp “cả gói” sang việc xét từng ứng cử viên một. EU
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:18 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
đã đàm phán với Ba lan, Sec, Hungary, Slovakia, Estonia, Sip, Latvia, Litva,
Rumani, Bungary, Slovenia, và Manta vào cuối năm 2000.
ở Châu Mỹ, khối buôn bán Nam Mỹ MERCOSUR cũng đang tích cực lưu
tâm đến việc kết nạp các nước khác thuộc khu vực Châu Mỹ để tiến tới thiết lập

thành công trong lĩnh vực năng lượng vậy tại sao chúng ta không hợp tác trong
nhiều lĩnh vực khác? ”
Cũng ở lục địa đen, 12 nước thành viên Cộng đồng phát triển phía Nam
châu Phi (SADC) đã kí nghị định thư hồi tháng 6 năm 1996 thành lập khu vực
mậu dịch tự do với 130 triệu dân và kêu gọi cắt giảm các khoản thuế trong thời hạn
tối đa 8 năm.
ở Châu Mỹ, tổ chức hiệp ước Ăngđanh, gồm 5 nước quanh dãy núi Ăngđanh
là Bôlivia, Côlômbia, Ecuađo, Pêru, Venezuela, đang thúc đẩy liên minh hải quan
5 nước nhằm xác định mức thuế thích hợp cho các mặt hàng của các nước thứ ba.
Trong phạm vi toàn Châu Mỹ, tháng 12/1994, 34 nhà lãnh đạo các quốc gia
khu vực này( trừ Cuba) đã kí kết hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do Châu
Mỹ (FTAA) và phấn đấu hình thành vào năm 2005.
ở Châu á, trong những năm vừa qua xu hướng hợp tác tiểu khu vực phát
triển mạnh. Việc Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nga kí
kết hiệp định thành lập khu vực phát triển kinh tế vùng sông Turmen ở Đông bắc á
hồi tháng 12/1995 đã mang đến sinh khí mới cho hợp tác kinh tế ở khu vực này.
Tại khu vực Nam á, 7 nước trong tổ chức SAARC - Hiệp hội các quốc gia Nam á
vì sự hợp tác khu vực trong đó có ấn Độ, Pakistan đã đồng ý huỷ bỏ hàng rào buôn
bán càng nhanh càng tốt nhằm tăng cường buôn bán và hợp tác khu vực trong các
liên doanh đầu tư và kỹ thuật với hy vọng thành lập một khu vực buôn bán giống
như ASEAN.
Rõ ràng, mở rộng liên kết khu vực đã, đang và sẽ là một xu hướng chủ đạo
trong quá trình vận động của liên kết kinh tế quốc tế.

Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:21 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
công ty xuyên quốc gia, các hệ thống tư nhân toàn cầu và các trung tâm kinh tế
quốc tế đóng vai trò nòng cốt. Toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển cao của quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế - bước phát triển tất yếu khách quan được quyết
định bởi sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế
giới. Cho đến nay, toàn cầu hoá đã, đang và sẽ lôi kéo tất cả các nước, kể cả những
nước chậm phát triển nhất, vào quỹ đạo của mình như một tất yếu lịch sử. Nó đang
thiết lập những nguyên tắc mới của cuộc chơi chung cho tất cả các nước mà không
phân biệt lớn, nhỏ, phát triển hay kém phát triển.
4. Xu hướng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia (TNCs)
Bảng 1 Mười vụ đại sáp nhập
Công ty sáp nhập
Khu vực
Ngày tuyên bố
Sốlượng
(Tỷ USD)
World com-MCI com
Viễn thông
01-10-97
43,35
Travelers - Citicorp
Ngânhàng,bảo hiểm
06-04-98
72,56
Nationalbank-BankAmerica
Ngân hàng

(Nguồn: Securities Data, Finantial Times)
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:22 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế , quá trình sáp nhập các công
ty xuyên quốc gia (TNCs) đã diễn ra một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, trở
thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế thế giới. Trong năm 1998, toàn thế giới có
25,729 vụ sáp nhập; mức giao dịch của các xí nghiệp sáp nhập là 1940 tỷ USD,
tăng 32% so với năm 1995. Làn sóng sáp nhập hầu như đụng chạm đến tất cả các
ngành. Sau đây là bảng thống kê 10 vụ sáp nhập tiêu biểu trong năm 1998.
Chúng ta có thể thấy một điều chắc chắn rằng liên kết kinh tế quốc tế và hội
nhập quốc tế sẽ là xu hướng vận động chính của nền kinh tế thế giới trong thế kỷ
mới này. Tuy nhiên,quá trình này lại có những ảnh hưởng không giống nhau đối
với các nước khác nhau đặc biệt là giữa các nước phát triển và các nước đang phát
triển. Chương sau đây sẽ nghiên cứu xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các
nước Đông và Đông Nam á.

các vấn đề khác. Có hai cơ quan là Uỷ ban thường trực ở giơnevơ và Brussel để
mở rộng và cải thiện điều kiện thương mại với các nước thánh viên của tổ chức
GATT và với EC.
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thị Kim Dung A2-TC18
Đề tài: Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông Nam á
- Trang:24 -
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Ban đầu là hiệp hội chính trị nhưng ASEAN ngày càng hoạt động theo
hướng hình thành một thị trường chung giữa các nước thành viên. Nền kinh tế các
nước ASEAN đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong khoảng 20 năm gần đây và
ngày càng chứng tỏ một sự năng động diệu kỳ trong việc tham gia vào phân công
lao động quốc tế và trao đổi thương mại quốc tế.
Ngày nay để đáp ứng với nhu cầu hoà nhập vào tiến trình phát triển của nền
kinh tế thế giới, nội dung của liên kết kinh tế quốc tế của các nước Đông và Đông
Nam á đang được mở rộng cả về các lĩnh vực khác và cả về số lượng các thành
viên.
1.2. Xu hướng hợp tác kinh tế ASEAN:
Một trong những mục đích chính của hợp tác kinh tế trong một khu vực là
tạo điều kiện cho quá trình phân chia lao động giữa các nước thành viên để đạt
được những thành tựu trong thương mại. ASEAN đã tỏ rõ các nỗ lực của mình
trong việc tăng cường liên kết kinh tế quốc tế bằng một quá trình hoạt động đầy
năng động.
Hiệp định thương mại ưu đãi ASEAN (PTA)
PTA được bắt đầu từ năm1997. Các mức ưu đãi thuế quan được mở rộng
trên phạm vi từng sản phẩm thông qua các đề nghị tự nguyện và thương thuyết.
Tuy nhiên, quá trình này diễn ra khá chậm và thiếu hiệu quả. Năm 1980, người ta

giảm cùng một tỷ phần thuế quan nhất định ở một nước có mức thuế quan cao
được coi là một bước suy thoái trầm trọng hơn. Khi các mức ưu đãi được áp dụng
theo PTA được đa phương hoá trên cơ sở “ tối huệ quốc” đối với các nước thành
viên, những nước có mức thuế cao sẽ do dự khi hạ bớt mức thuế quan do sự nhân
nhượng không thoả đáng giữa các nước có mức thuế thấp với nhau. Trên thực tế,
các cuộc thương thuyết thực thụ cũng gặp những khó khăn nghiêm trọng do các
vấn đề chính trị luôn được ưu tiên hàng đầu khi nước nào cũng phải lo bảo vệ chủ
quyền của mình.
Những bất đồng trong nhận thức về thành quả hợp tác khu vực giữa các
nước thành viên ASEAN cũng nảy sinh do các mặt hàng cơ bản chiếm một tỷ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status