Tiểu luận: Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC 244 - Pdf 14


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN SAU ĐẠI HỌC
 Tiểu luận

“Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy
động vốn của Công ty cổ phần ACC-244”
Nhóm học viên thực hiện:

1. Tống Quốc Tuấn MSHV: CH210535
2. Phạm Văn Tùng MSHV: CH210537
3. Anousith Phoutthavong MSHV: CH211010
Lớp: Tài chính - Ngân hàng/CHK21E
Hà Nội 2013

LỜI MỞ ĐẦU

vào những yếu tố như:

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.

Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau.
Điều này ta có thể thấy rõ thông qua số liệu ở bảng sau:

Nguồn: Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam – NXB CTQG, tr2
Tại Việt Nam tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện trong nghị định
90/2001/NĐ ngày 23-11-2001 của Chính Phủ. Theo quy định này doanh nghiệp vừa và nhỏ được
định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 30 người”.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và
thoả mãn một trong hai điều kiện trên đều được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo cách phân
loại này ở Việt Nam có khoảng 88% trong tổng số doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cụ thể là 76% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khu
vực kinh tế tư nhân doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 93% xét về vốn và 95% xét về lao
động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước.
1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh
1.2.1. Tính chất hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở nhiều khu vực chế biến và dịch vụ, tức là
gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là:

Doanh nghiệp vừa và nhỏ là vệ tinh, chế biến bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp lớn
với tư cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú trong nền kinh tế
như các dịch vụ trong quá trình phân phối và thương mại hoá, dịch vụ sinh hoạt và giải

quan trọng đối với nền kinh tế. Theo thống kê tại Việt Nam, trong tổng số khoảng 200.000 doanh
nghiệp thì khối các DNV&N chiếm khoảng 88%, với những đặc điểm riêng có, khu vực
DNV&N thể hiện qua một số vai trò chủ yếu sau:
Một là, DNV&N có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế
Ở mỗi nước, tỷ lệ phát triển hợp lý giữa các doanh nghiệp lớn và DNV&N là tuỳ thuộc
vào thực trạng kinh tế xã hội ở từng thời kỳ. Thông thường các doanh nghiệp lớn hoạt động
trong một số ngành nòng cốt với kỹ thuật hiện đại, vốn lớn. Còn các DNV&N hoạt động trong
những ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động như các ngành công nghiệp nhẹ hoặc các ngành giữ
vai trò bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Hai khu vực doanh nghiệp này luôn có tác động tương
hỗ nhằm phát huy thế mạnh của nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của cả
nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương trong những năm
qua khối DNV&N đã đóng góp khoảng 30% GDP của cả nước. Ngoài ra, các DNV&N của nước
ta còn cung cấp 100% sản phẩm trong nhiều ngành, đặc biệt là những ngành công nghiệp thủ
công truyền thống như chiếu cói, giầy dép. Ngày nay, khối các DNV&N đang ngày càng lớn
mạnh, với sự phát triển này chắc chắn nó đang và sẽ góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
Hai là, góp phần làm năng động, linh hoạt, tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế
Các DNV&N hoạt động với quy mô vốn không lớn nên có ưu thế nổi bật là có thể
chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang những ngành nghề
hiệu quả hơn nhằm thoả mãn nhu cầu rất linh hoạt của dân cư. Do lợi thế là linh hoạt và sáng tạo
trong kinh doanh cho nên các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Hơn nữa, chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước tham gia vào nền kinh tế
(với tư cách là những chủ thể kinh doanh độc lập), nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, giảm bớt
khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
Ba là, DNV&N có vai trò quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
Quá trình phát triển DNV&N cũng là một quá trình cải tiến máy móc, thiết bị, nâng cao
năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào
đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở

đoàn.
Qua sự phân tích trên ta thấy, khối các DNV&N đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những đóng góp của khối các doanh nghiệp này
không hề nhỏ. Tuy nhiên hiện nay, các DNV&N đang hoạt động trong một môi trường kinh tế
không hoàn toàn thuận lợi ở cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó gặp rất nhiều khó khăn về công
nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt phải kể đến sự hạn chế
về vốn đầu tư để tiến hành đổi mới trang thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với số
lượng ngày càng gia tăng thì nhu cầu huy động vốn của khối các DNV&N cũng ngày càng lớn,
trong khi đó các nguồn đáp ứng lại bị hạn chế. Vậy thì, các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với
nhiều khó khăn về vấn đề huy động vốn phục vụ cho nhu cầu của mình.
2. Nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp
Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn
khác nhau. Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác là
các ràng buộc khác nhau như:
+ Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy động vốn phải chịu
sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy động tối đa có thể (Luật DNNN).
+ Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói riêng sẽ là
những điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho doanh nghiệp.
+ Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng vốn cần thiết huy
động của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực hiện huy
động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp. Để dự đoán cầu về vốn của
doanh nghiệp ta có thể sử dụng hai phương pháp:
+ Phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu
+ Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của ngành là cơ sở để làm xuất phát điểm
cho mình. Phương pháp này hay được sử dụng cho những doanh nghiệp mới thành lập hay
những doanh nghiệp đã hoạt động nhưng cần thiết lập lại cơ cấu vốn.

2.1. Các hình thức huy động vốn
Có nhiều cách phân loại nguồn cung ứng vốn cho doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào nơi cung

trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng nợ của doanh
nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều
nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát
hành. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo Luật doanh
nghiệp.
c) Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn:
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng
vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Đặc
trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế
nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng
vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân
hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và
vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái
phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải
tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của
doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép
phát hành trái phiếu.
d) Vay vốn của các ngân hàng thương mại:
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình
thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là mối quan hệ
tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy
động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp cùng tham gia thẩm
định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm
phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng có
thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời
gian cho vay.
e) Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:

doanh nghiệp phải có điều kiện làm việc với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài.
i) Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI:
Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ
thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ thị trường xuất
khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm soát điều hành của doanh
nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp
Một là, thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp: Trước hết cần xem xét lại
tình trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm cần huy động bằng việc tính toán
các chỉ tiêu tài chính căn bản như: khả năng thanh toán, chỉ số nợ, chỉ số hoạt động, chỉ số doanh
lợi. Đồng thời tính toán lại các chỉ tiêu theo phương án huy động khác nhau. Trên cơ sở đó
khẳng định mục tiêu, phương án huy động cụ thể.
Hai là, phân tích luận chứng kinh tế kỹ thuật: Phân tích nghiên cứu kỹ càng luận
chứng kinh tế kỹ thuật đối với khoản tài chính cần huy động, tính đến các rủi ro liên quan như:
rủi ro về mệnh giá, tỷ suất, hối đoái.
Ba là, chính sách tài trợ: Phân tích và lựa chọn sử dụng chính sách tài trợ thích hợp, có
nghĩa là nguồn huy động được lựa chọn tài trợ cho bộ phận tài sản nào, chúng sẽ ảnh hưởng như
thế nào đến chính sách tài trợ hiện tại và so sánh với kỳ kinh doanh cũng như đối thủ cạnh tranh
chủ yếu.
Bốn là, chủ các nguồn tài chính: Nghiên cứu tỷ mỷ các nguồn tài chính (chủ nợ) cũng
là một sự cân nhắc tuyệt đối quan trọng. Nếu đó là các ngân hàng, các tổ chức tài chính thì tiềm
lực sức mạnh kinh doanh của họ là một bảo đảm cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp cần
kéo dài thời hạn các khoản nợ vì một lý do nào đó. Hơn nữa cùng cần xem xét động cơ tham gia
vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ.
Năm là, quyết định huy động nguồn vốn: Quyết định huy động các nguồn tài chính
luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, do vậy trước hết cần tập trung nghiên cứu và khai
thác triệt để các biện pháp quản trị khả thi đối với nguồn huy động. Điều này có ý nghĩa to lớn
đối với doanh nghiệp đang trong tình trạng tài chính khó khăn, khả năng thanh toán thấp.
Sáu là, kế hoạch huy động tài chính cho chi trả: Nguồn tài chính huy động hôm nay sẽ

và kỹ thuật. Xong ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc,
nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi
dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi
sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công
thức:
+ Hiệu quả kinh doanh (H) = K/C
trong đó: K: là kết quả đạt được
C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả.
Từ loại chỉ tiêu này cùng với suất hao phí ta phải kết hợp với việc đi xem xét với yếu tố
đầu vào là vốn cố định và vốn lưu động.

3.1.2. Mục đích của phân tích hiệu quả sử dụng vốn:
- Làm thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời.
- Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý.
- Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn.
- Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả phát hiện ra những nguyên nhân để
tìm ra những biện pháp khắc phục. Tuy nhiên để công việc phan tích hiệu quả sử dụng vốn là
đúng, xác thực và phát huy được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau:
+ Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo thực hiện kế
hoạch, của doanh nghiệp và nguồn thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như báo cáo về tình
hình sử dụng vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành.
+ Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp.
3.2. Quản lý vốn cố định và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
3.2.1. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng tham gia vào sản xuất, do chịu sự tác động của nhiều nhân tố
khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình: là sự giảm dần về giá trị sử dụng (tức là sự giảm về chất lượng và sự giảm
về tính năng kỹ thuật) và giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất hoặc do tác động của yếu

+ Phương pháp tính khấu hao gia tăng:
M
k
= TK*(NG
0
– NG
t
)
TK : tỷ lệ trích khấu hao năm
NG
t
: giá trị còn lại của tài sản cố định ở cuối năm thứ t
NG
0
: nguyên giá tài sản cố định.
3.2.2. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định:
Là một biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định cả trên phương diện bảo toàn và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định phản ánh các chỉ tiêu
giá trị về tài sản cố định trong năm kế hoạch, tổng giá trị tài sản cố định ở đầu kỳ, xác định tổng
giá trị tài sản cố định bình quân cần tính khấu hao, mức khấu hao phải tính trong năm và tình
hình phân phối sử dụng quỹ khấu hao. Gồm một số TSCĐ sau:
- Tài sản cố định không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (như đất đai).
- Tài sản cố định tăng thêm trong năm kế hoạch: nếu tăng vào một ngày nào đó của tháng thì
tháng sau mới tính khấu hao.
- Tài sản cố định giảm bớt trong năm kế hoạch: nếu giảm trong một ngày nào đó của tháng thì
tháng sau mới không phải tính khấu hao.
- Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính trong năm kế hoạch được xác định theo công
thức:
Kế hoạch khấu hao tài sản cố định được coi là biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố
định.

động hợp lý. Các biện pháp đó là:
- Định kỳ tiến hành kiểm kê, kiểm soát, đánh giá lại toàn bộ vật tư hàng hoá, vốn bằng tiền, vốn
trong thanh toán, để xác định số vốn lưu động hiện có của doanh nghiệp theo giá trị hiện tại.
- Những vật tư hàng hoá tồn đọng lâu ngày không thể sử dụng được do kém hoặc mất phẩm chất
phải xử lý, kịp thời bù đắp.
- Đối với doanh nghiệp bị lỗ kéo dài, cần tìm biện pháp để loại trừ lỗ trong kinh doanh.
- Để đảm bảo vốn lưu động trong điều kiện lạm phát, khi phân phối lợi nhuận cho mục đích tích
luỹ và tiêu dùng, doanh nghiệp phải dành ra một phần lợi nhuận để bù đắp số hao hụt vốn vì lạm
phát và phải được ưu tiên hàng đầu.
3.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Doanh thu thuần/VLĐ bình quân
Chỉ tiêunày cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh thì đem lại mấy đồng giá trị sản
lượng hay doanh thu. Như vậy chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
- Mức đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = VLĐ bình quân/Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng sản phẩm tiêu thụ thì cần bao nhiêu vốn lưu động.
- Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động = Lợi nhuận/VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động bỏ
vào sản xuất kinh doanh đem lại mấy đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao thì hiệu quả sử dụng
vốn lưu động càng cao.
3.4. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chung
Hiệu quả sử dụng vốn:
H
VSD
= D/V
SXKD
trong đó:
H
VSD

thành Công ty xây dựng 244 trực thuộc Tổng công ty bay dịch vụ Việt nam. Thực hiện quyết
định số 116/2003/QĐ-BQP ngày 09/09/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc sáp nhập
Công ty xây dựng 244 vào Công ty ACC, từ ngày 01/01/2004 Xí nghiệp xây dựng 244 là đơn vị
trực thuộc Công ty xâydựng công trình hàng không ACC.
Thực hiện Quyết định số 4859/QĐ-BQP ngày 21/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
về việc phê duyệt phương án và chuyển Xí nghiệp xây dựng 244 thành Công ty cổ phần ACC-
244.Với phương châm, mục tiêu hoạt động là “Chất lượng - Tiến độ - Hiệu quả”Công ty đã đạt
được nhiều thành tích trong sản xuất kinh doanh. Tháng 12 nóm 1999 được Chủ tịch nước tặng
“Huân chương lao động hạng ba”, 5 năm qua được Bộ Xây dựng và Công đoàn Xây dựng Việt
nam trao tặng 9 Huy chương vàng và bằng chất lượnng cao. Đặc biệt công trình “Trụ sở làm việc
UBND tỉnh Lào Cai” được Bộ xây dựng tặng “Cúp vàng chất lượng xây dựng Việt Nam”.
1.1.3. Ngành nghề kinh doanh chính của công ty
Công ty cổ phần ACC-244 chính thức đi vào hoạt động với các ngành nghề kinh doanh
chính như: xây dựng và hoàn thiện nhà các loại; xây dựng công trình đường bộ, công trình công
ích, công trình dân dụng khác; lắp đặt máy móc thiết bị công nghiệp, khai thác, xử lý cung cấp
nước, thoát nước, lắp đặt hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, lò sưởi, điều hoà không khí, hệ
thống xây dựng khác; kinh doanh bất động sản…
1.2. Đánh giá khái quát về tình hình tài chính của công ty Các chỉ tiêu Đv tính Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Tăng gi

m

2010 so v

i 2009

2011 so v

quyết 11 cắt giảm đầu tư công mang đến nhiều khó khăn cho công ty bởi phần lớn các công trình
công ty thi công thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước.
Hiện nay, tỷ lệ vốn nợ đọng nằm trong các công trình mà Công ty thi công nhưng vẫn
chưa được chủ đầu tư thanh toán ở mức cao, trong khi đơn vị vẫn phải trả lãi vay cho ngân hàng.
Áp lực về vốn luôn làm đau đầu các nhà quản lý điều hành công ty vì vừa phải lo thanh toán các
khoản vay đến hạn vừa phải duy trì tiến độ thi công các công trình trong khi việc giải ngân và
thanh toán gặp nhiều khó khăn.
Một số công trình đang thi công tiêu biểu :
- Trung tâm dịch vụ thương mại và khách sạn VEGEPORT PLAZA ( giá trị xây lắp 200 tỷ).
- Đoàn an điều dưỡng 298/ Tổng cục CNQP(70 tỷ)
- Nhà khách Quân chủng PK-KQ (hơn 150 tỷ).
Để có nguồn cung vốn ổn định cho công tác thi công đạt đúng tiến độ đặc biệt là công
trình Nhà khách Quân chủng PK-KQ với thời gian cam kết hoàn thành với chủ đầu tư 1 năm đã
đặt ra bài toán khó. Tuy nhiên xuất phát từ một doanh nghiệp có truyền thống trong ngành xây
dựng công ty đã có một số phương án để khắc phục tình trạng thiếu vốn hiện nay đó là thực hiện
huy động vốn qua kênh:
+ Tín dụng ngân hàng.
+ Thông qua tín dụng thương mại (Mua trả chậm, trả góp)
+ Và tín dụng thuê mua (Thuê hoạt động và thuê tài chính)
2.2. Huy động vốn cho dự án Nhà khách Quân chủng PK-KQ
Để có cái nhìn tổng quát về cách thức và phương pháp mà công ty áp dụng để tài trợ vốn
ta xét riêng dự án có nhu cầu vốn cao nhất đó là công trình Nhà khách Quân chủng PK-KQ. Do
thời gian thi công gấp rút chỉ 1 năm trong khi khối lượng công việc khá nhiều đòi hỏi sự chủ
động trong tìm kiếm nguồn tài trợ vốn.
Nhằm nâng cao năng lực sản xuất công ty có lập danh mục TSCĐ cần đầu tư cho dự án
như sau:
DANH M
ỤC ĐẦU T
Ư TÀI S
ẢN


a) Thuận lợi:
- Là một khách hàng thân thiết có lịch sử giao dịch tốt, có uy tín trong việc thanh toán nợ
đúng hẹn nên được ngân hàng tạo điều kiện có thể vay theo hình thức tín chấp với món vay giá
trị nhỏ từ 3-5 tỷ.
- Công ty thường xuyên tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng do đó các điều kiện và thủ
tục vay vốn sẽ được đảm bảo và thực hiện nhanh chóng.
- Dự án được đánh giá khả thi, có hiệu quả nên thời gian thẩm định vay vốn được rút
ngắn.
- Nhà nước và các ngân hàng TM có nhiều chính sách ưu đãi cho vay vốn và giảm lãi
suất cho vay.
- Số lượng ngân hàng hoạt động hiện nay khá nhiều nên công ty có thể lựa chọn ngân
hàng phù hợp để thực hiện vay vốn.
b) Khó khăn:
- Trong giai đoạn kinh tế hiện nay khi vấn đề giải quyết nợ xấu trở nên cấp bách vì nó là
tác nhân làm tắc nghẽn dòng vốn của nền kinh tế. Các ngân hàng kiểm soát chặt chẽ các hợp
đồng vay vốn, điều kiện vay vốn được nâng cao hơn do đó việc vay vốn ngân hàng của công ty
cũng gặp rất nhiều khó khăn.
- Theo điều tra của Cục phát triển SMES - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3 DNVVN
có khả năng tiếp cận nguồn vốn NH; 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Trong số DN
tại VN không tiếp cận được vốn vay NH thì 80% không đáp ứng đủ điều kiện cho vay
- Tài sản thế chấp là vấn đề khó khăn nhất khi công ty thực hiện vay vốn ngân hàng, nếu
như trước kia, bất động sản được ngân hàng định giá và cho vay khoảng 70% giá trị thì nay, việc
định giá vừa đánh xuống thấp bằng một nửa, hạn mức cho vay cũng chỉ bằng 50% giá được ngân
hàng ấn định.
2.2.2. Tài trợ vốn qua nghiệp vụ cho thuê tài chính
Với dự án Nhà khách Quân chủng PK-KQ hiện tại, công ty rất cần đầu tư mua sắm nhiều
máy móc, thiết bị đặc thù để phục vụ cho dự án. Vì vậy, sử dụng hình thức cho thuê tài chính để
cung cấp nguồn vốn là một giải pháp hiệu quả cao mà công ty đang tính đến.
a) Thuận lợi:

CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP TĂNG HUY ĐỘNG VỐN CHO DOANH NGHIỆP
Công việc đổi mới kinh tế và nỗ lực thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đã
tạo động lực đáng kể đối với sự tăng trưởng kinh tế, trong đó có khu vực ngoài quốc doanh –
Chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động kinh
doanh và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra trong quá trình vừa học vừa làm doanh nghiệp vừa và nhỏ
đã và đang đào tạo một đội cgũ các nhà doanh nghiệp trẻ và công nhân, với kiến thức và tay
nghề đang từng bước được hoàn thiện. Xét về mặt quản lý chung doanh nghiệp vừa và nhỏ chính
là lực lượng quan trọng, góp phần hiệu suất và tính lhoạt của nền kinh tế.
Nhằm góp phần giải quyết một số khó khăn trong quá trình huy động vốn của doanh
nghiệp để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa theo đúng tiềm năng của nó thì cần một số giải pháp
sau:
1. Thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng
Từ năm 1995, quỹ bảo lanhc tín dụng đã hoạt động thí điểm ở Bắc Giang giữa ngân hàng
Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn và trung tâm tư vấn doanh nghiệp Bắc Giang với viện
Friedrich Erbut (Đức), sau đó là quỹ bảo lãnh tín dụng giữa NH Công Thương Việt Nam và ngân
hàng cân đối Đức với giá trị 1 triêu DEM. Từ những kinh nghiệp khả quan bước đầu đó Chính
Phủ đã ra nghị định số 90/2001/10-CP đáp ứng được yêu cầu về thành lập quỹ tín dụng, và chúng
ta nên nhanh chóng thành lập quỹ này để đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Xuất phát từ tình thình thực tế phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, quỹ bảo lãnh tín
dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên là một tổ chức trung gian giữa NH và DN, là một
định chế tài chính phi lợi nhuận, nằm trong hệ thống NH và chịu sự giám sát của NHNN.
Nguyên lý cơ bản của quỹ bảo lãnh tín dụng là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vay ngân
hàng với sự bảo lãnh của quỹ tín dụng. Quỹ là người trung gian đắc lực giữa ngân hàng và các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thẩm định dự án của doanh nghiệp để kiến nghị NH cho vay.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status