nghiên cứu ảnh hưởng của các độc chất trong bùn đáy kênh rạch tại tp.hcm lên quá trình sinh trưởng và phát triển của cây rau muống - Pdf 14

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
1.1 Giới thiệu
Hiện nay, hệ thống kênh rạch ở thành phố Hồ Chí Minh đang bò nhiễm bẩn nặng.
Một trong những nguyên nân chính là hiệu quả thoát nước thải của hệ thống kênh
rạch này hiện quá thấp. Theo số liệu thống kê của đài khí tượng thuỷ văn khu vực
Nam Bộ, mỗi ngày các kênh rạch ở thành phố tiếp nhận trên 700.000 m
3
nước
thải không được xử lý của gần 5 triệu dân, hơn 700 cơ sở sản xuất công nghiệp và
hơn 20000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Hàng trăm ngàn tấn rác thải hàng
ngày ném xuống kênh rạch. Khoảng 26000 hộ với khoảng gần 220000 người sống
dọc theo hai bên bề kênh rạch đang hàng ngày thải mọi thư’xuống dòng kênh.
Hiện tại, hơn 60% chiều dài kênh rạch bò lấp, hơn 50% kênh rạch không có oxy
hoà tan, vì vậy nước có mùi hôi thối, ô nhiễm nặng. Theo số liệu thống kê của sở
giao thông công chánh thành phố Hồ Chí Minh, tại kênh Tàu Hũ – Bến Nghé có
khoảng 10000 hộ và khoảng 1600 hộ sống ở trên và ven sông Tham Lương – Bến
Cát. Các kênh này đều nằm ở trung tâm khu vực thành phố , nên có mật dộ dân
số cao, tải lượng chất thải đổ ra lớn, trong khi đó lưu thông nước kém nên bò ứ khi
triều lên và lưu giữ nhiều chất thải, đặc biệt là kim loại nặng. Như chúng ta đã
biết , các kim loại nặng này rất dễ bò hấp phụ trên bề mặt các chất lơ lửng dạng
hữu cơ và vô cơ. Khi các chất này lắng xuống đáy kênh tạo thành bùn lắng thì các
kim loại này cũng bò tích tụ trong bùn. Các kim loại nặng có thể kể đến như: Cd,
Hg, Zn, Cu, Pb, Fe, . . . Tuy nhiên, không phải tất cả các kim loại nặng đều gây
nguy hiểm cho đời sống vi sinh vật mà ngược lại có một số kim loại nặng giữ vai
trò quan trọng trong cơ thể vi sinh vật như Zn, Cu, Fe, . . . chúng là những nguyên
tố cần thiết cho cơ thể sống của vi sinh vật cũng như của con người. Tuy nhiên,
các nguyên tố này nếu vượt quá cần thiết hoặc quá thiếu đối với cơ thể thì chúng
gây nguy hiểm nhất là khi các nguyên tố đó ở dạng hợp chất. Tính độc của các
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
1

gây ô nhiễm bùn đáy ở kênh rạch trong thành phố.
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
2
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
Với mức độ phát triển nhanh chóng của dân số (ước tính đến năm 2020 sẽ thêm
khoảng 10 triệu người và công nghiệp tăng hơn 10% trên một năm) thì lượng
nước thải và chất thải đổ xuống hệ thống kênh rạch thành phố Hồ Chí Minh sẽ
rất lớn. Và như vậy, tình trạng ô nhiễm kênh rạch nếu không sớm được khắc phục
sẽ ngày càng trầm trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển của thành phố.
Theo các chuyên gia môi trường, việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường kênh rạch
thành phố Hồ Chí Minh có thể chia làm 4 nhóm: xử lý nước thải trước khi đổ ra
kênh rạch, tăng cường khả năng thoát nước của hệ thống kênh rạch, tiến hành
nạo vét, loại trừ các nguồn bẩn tồn đọng ở lòng kênh, quy hoạch lại hệ thống
kênh rạch.
Không chỉ riêng những người dân đang sống trong khu vực lân cận các dòng kênh
chòu cảnh ô nhiễm mong mỏi thành phố sớm triển khai các giải pháp hiệu quả cải
tạo các dòng kênh nội độ, tạo nên nét đẹp rất riêng cho thành phố Hồ Chí Minh.
Từ tính cấp thiết của nạn ô nhiễm kênh rạch, đề tài này sẽ phân tích kỹ hơn các
độc chất có trong bùn đáy tại một số kênh rạch ở thành phố Hồ Chí Minh thể hiện
qua quá trình sinh trưởng và phát triển của cây rau muống.
1.2 Mục tiêu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của độc chất bùn đáy ở một số kênh rạch của thành
phố Hồ Chí Minh đến quá trình sinh trưởng của cây rau muống và quá trình tích
luỹ chất độc trong các bộ phận của cây.
- Góp phần đánh giá tác động do ộ nhiễm kim loại nặng trong môi trường đất
đối với một số cây trồng nông nghiệp.
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
3
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ

- Nghiên cứu khả năng tích luỹ của kim loại nặng trong các bộ phận của cây.
- Xử lý số liệu thống kê bằng phần mềm Stagraphics, Excel.
1.5 Giới hạn của đề tài
- Khảo sát, nghiên cứu các độc chất do nước thải sinh hoạt và công nghiệp có
ở trong bùn đáy ở kênh Tàu Hũ – Bến Nghé, kênh Tham Lương – Bến Cát và
khả năng tích luỹ kim loại nặng trong cây cải xanh.
- Do kinh phí có hạn nên mẫu phân tích còn ít, chỉ phân tích hàm lượng một số
KLN trong mẫu và khả năng tích lũy KLN trong than và lá của thực vật khảo sát.
1.6 Phương pháp nghiên cứu
1.6.1 Phương pháp luận
Nước ta ngày càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng
được đẩy mạnh, nhiều nhà máy xí nghiệp ra đời. Trong quá trình hoạt động và
sản xuất, các khu công nghiệp, nhà máy đã thải ra một lượng lớn chất ô nhiễm,
đặc biệt quan trọng nhất là hàm lượng các chất KLN khá lớn có trong nước thải.
Lâu dần các KLN này tích tụ lại trong bùn đáy và môi trường đất, nếu sử dụng
đất này trồng cây nông nghiệp thì các KLN sẽ theo chuỗi thức ăn xâm nhập vào
cơ thể động thực vật và con người và gây tác động xấu đấn sinh vật và con người.
Còn ở những vùng nông thôn người dân thường sử dụng trực tiếp nguồn nước mặt
( sông, ao, hồ… ) để ngâm ủ hạt giống trước khi gieo trồng và tưới tiêu cho cây
trồng. Do quá trình lan truyền chất ô nhiễm những nguồn nước này có thể sẽ bò ô
nhiểm KLN, khi người dân sử dụng nguồn nước bò ô nhiễm KLN để ngâm, ủ hạt
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
5
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
giống thì những kim loại hòa tan trong nước nó sẽ tích lũy trong hạt giống,sau đó
theo dây chuyền thức ăn gây tác động đến người và động thực vật.
Trong môi trường đất này, có hai nhóm độc chất đối với cây trồng, đó là chất độc
bản chất và chất độc không bản chất. Nhóm 1 là những ion thiết yếu cho sự sinh
trưởng và phát triển của cây, nếu vượt quá một giới hạn nhất đònh nào đó thì

cây có khả năng tích lũy hàm lượng KLN khá cao cả từ nguồn trong đất và trong
không khí. Rau muống là loại rau ăn lá và thân, đây cũng là một trong những bộ
phận chứa nhiều KLN, nên rất đáng quan tâm vì các KLN sẽ theo dây chuyền
thực phẩm tác động đến con người.
Mặt khác, ở Việt Nam tiêu chuẩn về hàm lượng KLN trong đất vẫn còn khá mới
mẻ và chưa đầy đủ, hay mới chỉ là các tiêu chuẩn tạm thời do Bộ Y tế và Bộ
nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa ra dựa hoàn toàn trên tiêu chuẩn của
quốc tế. Với đề tài “ Nghiên cứu ảnh hưởng của các độc chất trong bùn đáy
kênh rạch tại TP HCM lên sự sinh trưởng và phát triển của cây rau muống “
sẽ cung cấp thêm những tư liệu cần thiết cho quá trình xây dựng bộ tiêu chuẩn về
hàm lượng KLN trong đất.
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
7
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
Sơ đồ nghiên cứuSVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
8
Lấy mẫu đất
Đất sạch
( Mẫu đối chứng )
Đất bùn có chứa kim loại
nặng
Khảo sát quá trình sinh
trưởng của cây cải
Khảo sát quá trình sinh
trưởng và khả năng tích luỹ
các ion khảo sát trong các

OM, mùn, độ chua, các dạng tồn tại của Fe và nhôm trong mẫu nghiên cứu.
- Tiến hành nuôi trồng thực vật :lựa chọn và ủ giống, xây dựng mô hình thí
nghiệm, tiến hành gieo trồng, theo dõi sự sinh trưởng và phát triển từng bộ
phận của thực vật khảo sát.
- ng dụng các phần mềm tin học trong việc xử lý số liệu: phần mềm Excel,
Stagraphics.
- Đánh giá ảnh hưởng của bùn đáy đến quá trình sinh trưởng, phát triển của
rau muống và quá trình tích lũy một số KLN trong thân, lá cây rau muống
- Trao đổi ý kiến với chuyên gia và giáo viên hướng dẫn: thảo luận về kết
quả nghiên cứu.
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
9
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
1.7 Đối tượng nghiên cứu
- Bùn đáy ở kênh Tàu Hũ – Bến Nghé và kênh Tham Lương – Bến Cát.
- Cây rau muống.

1.8 Ý nghóa khoa học và thực tiễn
Ý nghóa khoa học:
- Góp phần nghiên cứu ảnh hưởng của các độc chất trong bùn đáy đối với cây
rau muống.
- Khả năng tích luỹ của một số kim loại nặng trong các bộ phận của cây.
Ý nghóa thực tiễn:
- Đánh giá khả năng sử dụng bùn làm phân bón cho cây trồng.
- Đánh giá mức độ ô nhiểm KLN của bùn đáy kênh TL-BC và TH-BN.
- Đánh giá khả năng sử dụng rau trồng ven các kênh TL-BC và TH-BN.
1.9 Phương hướng phát triển của đề tài
- Mở rộng khu vực nghiên cứu đối với các kênh rạch khác của thành phố Hồ
Chí Minh.

dẻo hóa, hợp chất hữu cơ đa vòng và các ô nhiễm vi sinh mà điển hình là E. Coli
và Coliform. Trong đó, các KLN như Al, Fe, Cd, Zn, Hg, Cu, Pb…là dạng gây ô
nhiễm cho môi trường nặng nề và lâu dài nhất.
PAHs là các hợp chất hữu cơ đa vòng thơm thuộc loại ô nhiễm vi lượng nhưng có
khả năng gây ung thư, gây biến đổi gen. Hiện nay, trong số các PAHs được phân
tích có 02 nhóm: LPAH (các hợp chất hữu cơ đa vòng thơm có khối lượng phân tử
thấp: Napthalene, Acenaphatene, Fluorence, Phenalthene và Anthracence) và
HPAH (các hợp chất hữu cơ đa vòng thơm có khối lượng phân tử cao:
Fluoranthene, Pyrene, Benzo(a)anthracence, Chrysene,…). Các nguồn phát sinh
ra PAHs:
• Sự cố tràn dầu (PAHs chiếm 2.8% khối lượng dầu)
• Công nghiệp sản xuất thép
• Sản xuất điện nhôm
• Xúc tác phản ứng trong công nghiệp dầu mỏ
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
12
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
• Sản xuất carbon đen, than
• Chất thải rắn của quá trình đốt
• Chất thải từ động cơ đốt trong
PAHs có thể phát thải vào trong môi trường ở dạng rắn, lỏng hoặc khí. Do khả
năng hoà tan thấp trong nước nên PAHs dễ dàng bám vào các hạt vô cơ và bề
mặt rắn, sau đó các hạt này lắng xuống và tích lũy trên bề mặt bùn. PAHs có thể
liên kết vơi lượng oxi nghèo nàn trong lớp bùn mặt nên nồng độ trong bùn thường
rất cao.
PCBs là các hợp chất polychlorbiphenyl được sử dụng chủ yếu trong công nghệ
sản xuất dầu thủy lực, các phụ gia chống cháy nổ, dung môi rửa giải hữu cơ, dung
môi cách điện trong máy biến thế, sơn và mực in,… Nhờ tính trơ về mặt vật lý
cũng như hoá học nên PCBs tồn tại bền vững trong môi trường và có độc tính cao.

Nói chung tùy theo mức độ nguy hiểm mà ta có thể chia bùn đáy ra thành ba loại:
- Loại không ô nhiễm hoặc ít ô nhiễm không cần xử lý trước khi sử dụng.
- Loại ô nhiễm cần phải được xử lý trước khi sử dụng để ngăn chặn hậu quả
xảy ra cho môi trường. Mức độ nhiễm có thể chia thành 4 loại: nhẹ, trung
bình, nặng và rất nặng.
- Loại bùn lắng ô nhiễm hữu cơ có chứa hàm lượng N, P, K khá cao. Đây là
chất dinh dưỡng cho cây trồng có thể tận dụng làm phân bón.
Rõ ràng là nghiên cứu kim loại nặng trong bùn cống rãnh dùng cho đất canh tác,
dẫn đến sự ô nhiễm đất và cây trồng, nhất là ở nước ta, khi chưa có nhiều nghiên
cứu , là rất quan trọng và cấp bách.
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
14
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
2.1.2 Nguồn gốc của KLN
Đá mẹ là nguồn cung cấp đầu tiên các nguyên tố khoáng và có vai trò quan trọng
trong việc tích luỹ các kim loại nặng trong đất. Trong những điều kiện xác đònh,
phụ thuộc vào các loại đá mẹ khác nhau mà các đất được hình thành có chứa hàm
lượng khác nhau các kim loại nặng.
Đã có nhiều bằng chứng chứng minh nguy hiểm độc hại của kim loại nặng trong
môi trường đất đến thực vật, động vật ăn thực vật và con người mà biểu hiện rõ là
ảnh hưởng của Pb, Cd, Hg. Trong quá trình sản xuất con người đã làm tăng đáng
kể các nguyên tố kim loại nặng trong đất. Các loại thuốc bảo vệ thực vật thường
có chứa các kim loại nặng như As, Pb, Hg. Các loại phân bón hoá học, đặc biệt
là phân photpho thường chứa nhiều As, Cd, Pb. Các loại bùn nước thải thành phố
cũng là nguồn có chứa nhiều các kim loại nặng khác nhau như As, Pb, Cd, Bi, Hg,
Sn.
Các nguyên tố kim loại nặng tồn tại và luân chuyển trong tự nhiên thường có
nguồn gốc từ chất thải của hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp trực tiếp hoặc
gián tiếp sử dụng kim loại nặng ấy trong quá trình công nghệ hoặc từ các chất

Vỏ
phong
hoá
Dao động
trong đất
Trung bình
trong đất
As
Bi
Cd
Hg
In
Pb
Sb
Se
Te
Ti
1.5
0.031
0.13
0.012
0.058
3
0.2
0.05
-
0.08
1.5
0.065
0.09

0.01-0.5
0.2-0.5
2-300
0.2-10
0.01-1.2
-
0.1-0.8
6
0.2
0.35
0.06
0.2
19
1
0.4
-
0.2
16
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
Bảng 2.3: Hàm lượng một số kim loại nặng trong các sản phẩm dùng làm phân
bón trong nông nghiệp (ppm)
Kim
loại
Phân
phốtpho
Phân
nitơ
Đá vôi Bùn
cống

-
-
-
0,1 – 24
-
<0,05-0,1
-
-
20 - 1250
-
<0,1
-
2 – 30
<1– 100
2– 3000
<1 – 56
2– 7000
2 – 44
1 – 77
-
<1 – 25
-
<0,1 – 0,8
<0,001-0,2
0,4 – 16
<0,1 – 0,5
0,2 – 2,4
0,2
<10
-

Mn
Mo
Ni
Pb
Sn
Se
Zn
1,1 – 230
1 – 3410
11,3 – 2490
84 – 17000
10 – 99000
80 – 33500
1000 – 154000
0,6 – 56
32 – 9870
0,1 – 214
2 – 5300
13 – 36000
2,6 – 329
1,7 – 17,2
101 - 19000
10
10
30
800
500
260
17000
6

- M là kim loạ nặng; p: vật liệu đá mẹ; a: sự lắng đọng khí quyển
- f : phân bón; ac: hoá chất nông nghiệp; ow: các chất thải hữu cơ
- ip: các chất ô nhiễm vô cơ khác; cr: sự hấp thụ KLN bởi cây trồng
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
18
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
2.1.3 Sơ lược về các kim loại nặng: Cd, Pb, Hg, Cu
a. Chì(Pb):
Chì là một nguyên tố vi lượng (< 0.1% khối lượng) trong đá và đất tự nhiên. Bán
kình ion Pb là 124pm và nó thay thế đồng hình K ( bán kính 133pm) trong mạng
lưới aluminsilicate. Hàm lượng chì trong đất, đá tăng tự nhiên do hoạt động của
núi lửa tạo thành đá núi lửa. Chì có ái lực mạnh với S và trong tự nhiên hình
thành các loại quặng chì như PbS, PbCO
3
, PbSO
4
.
Chì là một loại độc bản chất có ảnh hưởng quan trọng trong môi trường sinh thái.
Chì là nguyên tố thuộc nhóm IV trong bản hệ thống tuần hoàn của nguyên tố hoá
học. Chì có hai trạng thái oxy hoá bền chính là Pb (II) và Pb (IV) và có bốn đồng
vò bền là
204
Pb,
206
Pb,
207
Pb và
208
Pb. Trong môi trường nó tồn tại chủ yếu dưới

chất vô cơ của chì như: PbO ( massicot và litharge), Pb( OH)
2
, Pb
3
O
4
, PbO
2
, PbS,
PbCl
2
, PbSO
4
, PbCO
3
, PbCrO
3
. chì hữu cơ thường được sử dụng là chì tetraethyl
[Pb(C
2
H
5
)4].
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
19
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
Chì có nguồn gốc từ khói thải xe cộ, từ khai mỏ và luyện quặng chì, từ bùn cống
rãnh, từ việc sản xuất và sử dụng ăc quy chì, sơn công nghiệp có chứa chì, men
đồ gốm, từ các loại thuốc trừ sâu vô cơ…chì tồn tại trong môi trường đất trong

năng trao đổi của Ca
2+
gây ra chức năng loãng xương, gẫy xương, giảm chiều cao
cơ thể ( nguyên nhân của căn bệnh Itai – Itai tại Nhật, 1947). Cd có khả năng tấn
công và lấn át vò trí của Zn trong cấu trúc của enzyme Carboxypeptidase A và
làm rối loạn chức năng trao đổi chất .
Thức ăn là con đường chính để Cd đi vào cơ thể nhưng bên cạnh đó việc hút
thuốc lá và hơi khói có chưa nhiều CdO, cũng là nguồn quan trọng đưa Cd vào
trong cơ thể. Tổ chức Lương Nông Quốc Tế (FAO) và Tổ Chức Y Tế Thế Giới
( WTO) đề nhò lượng Cd có thể chấp nhận được đưa vào cơ thể tối đa 400 – 500
µg/tuần, tương đương koảng 70 µg/ngày. Theo thống kê của Page, Bingham và
Chang (1981), lượng Cd vào cơ thể trung bình trên thế giới hiện nay khoảng từ 25
–75 µg/ngày. Đây rõ ràng có vấn đề vì lượng Cd xâm nhập vảo cơ thể con người
đang xấp xỉ ở ngưỡng trên tiêu chuẩn cho phép. Chính vì vậ những người hút
thuốc lá có thể thêm vào cơ thể một lượng Cd dư thừa từ 20 – 35 µg Cd/ngày.
Nguồn gây ô nhiễm cadium: từ đá núi lửa, từ phân bón (phân photphat), từ sự
lắng đọng ở bầu khí quyển của hoá chất Cd, từ bùn cống rãnh, các mỏ… Ô nhiễm
môi trường do Cd đã và đang gia tăng nhanh trong những thập niên gần đây là do
hậu quả của việc phát triển công nghiệp ồ ạt và đặc biệt là việc gia tăng sử dụng
Cd trong công nghiệp. Mặt khác, do quá trình khai thác các mỏ kim loại gia tăng
và quá trình thải chất thải bừa bãi dẫn đến ô nhiễm Cd trong môi trường là điều
khó tránh khỏi.
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
21
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
c.Thuỷ ngân (Hg):
Người ta đã sử dụng thuỷ ngân cách đây khoảng 3500 năm. Ngày xưa, người La
Mã đã sử dụng Hg để chế tạo chất màu đỏ của thần sa. Các hợp chất thuỷ ngân là
những chất độc mạnh và nhiễm độc Hg đã được biết từ thế kỷ XVI, nhất là ở

3
)
2
.8H
2
O)], [(Hg(CN)
2
)], HgS, [Hg(CNO)
2
], Neptal, Merurocrom.
Trước đây một số hợp chất hữu cơ cũng được dùng làm hoá chất trừ dòch hại như
trừ nấm ( ví dụ để xử lý nấm ở thóc giống trước khi gieo hạt…) nhưng vì các hoá
chất đó gây nhiễm độc cho người dùng và lưu tồn lâu dài trong môi trường tự
nhiên nay đã cấm sử dụng ở Việt Nam từ năm 1996. Thuỷ ngân là một trong số
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
22
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
các nguyên tố độc chất cho con người và nhiều độc vật bậc cao. Mặc dù Hg có
tính độc dưới dạng ion, muối thuỷ ngân có tính độc cao với các sự nguy hiểm
khác nhau. Vài loại thuỷ ngân hữu cơ, đặc biệt, như Ankyl Hg thì được xem như
rất độc đối với con người do ảnh hưởng đến hệ thần kinh, đặc biệt là Metyl Hg
có ảnh hưởng rất mạnh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tính độc hại của thuỷ ngân và
các hợp chất của nó trong mội trường là một vấn đề gần đây mới trở nên nổi cộm.
Trường hợp đầu tiên được biết ở Nhật Bản, trong suốt năm 1950, khi mà người
dân một tỉnh nhỏ Miramata đã ngộ độc khi ăn cá có chứa mức Hg metyl cao, hoặc
là một vài trường hợp thú hoang dại bò ngộ độc khi ăn lá cây có chứa nhiều metyl
Hg ở Đức 1948 – 1965.

d. Đồng(Cu)

lượng Cu thấp nhất.
Cu từ không khí được đưa vào đất do mưa và các chất thải khô, theo các chất thải
công nghiệp chứa Cu và các kiểu các chất có trong bụi. Theo UK (nghiên cứu của
Anh) tổng lượng chất thải chứa Cu hàng năm từ bụi khoảng 100-480g/ha.
Trên bề mặt đất, trên các cánh đồng lượng Cu khoảng 60mg/kg chúng có khuynh
hướng ngăn chặn các quy trình sinh học làm màu mỡ đất, làm ảnh hưởng đấn sức
khỏe của gia súc trên các đồng cỏ.
Sự thiếu hụt Cu làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mùa màng làm trái cây
kích thước nhỏ hơn, sự mất màu và kết cấu xốp của củ hành, sự mất màu ở cà rốt,
dạng suy yếu của rau, lượng protêin giảm, sự thay đổi cấu trúc aminoaxit.
Ở động vật, Cu cùng với iốt và vitamin B
12
tham gia quá trình tạo huyết sắc tố
trong máu, là thành phần của một ố enzyme. Thiếu đồng trong khẩu phần. Gia
súc mắc bệnh thiếu máu, kém ăn, chậm lớn, xương chậm phát triển, rối loạn chức
năng sinh sản và tiêu hóa, lông mất màu. Cu trong thức ăn gia súc hấp thu khoảng
30%-50%, Cu ở dạng muối sunphat tiêu hóa và hấp thu tốt hơn. Tăng hàm lượng
canxi trong khẩu phần sẽ làm giảm mức độ hấp thu đồng.
Nguyên nhân dẫn đến nghộ độc Cu của con người có thể là do: uống nước thông
qua hệ thống ống dẫn nước bằng Cu; ăn thực phẩm có chứa đồng cao như
SVTH: NGUYỄN THIỆN Ý MSSV:02DHMT357
24
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: GS.TSKH:LÊ HUY BÁ
Th.S THÁI VĂN NAM
chocolate, nho, nấm, tôm…; bơi trong các hồ bơi có sử dụng thuốc diệt tảo có chứa
đồng để làm vệ sinh hồ. Sự thiếu hụt cũng như dư thừa Cu cũng đều ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe. Bệnh thiếu máu do thiếu hụt sắt ở trẻ em đôi khi cũng
được kết hợp với sự hiếu hụt Cu.
2.1.4 Khả năng lan truyền ô nhiễm của kim loại nặng (KLN)
Khả năng lan truyền ô nhiễm là tích luỹ, phát tán các kim loại nặng trong đất và


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status