Báo cáo nghiên cứu khoa học "Một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp thời hội nhập " - Pdf 15

Một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp thời hội nhập
Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận. Kinh doanh có văn hóa là kinh
doanh có mục đích và phương thức đạt được cái thiện, cái lợi, cái đẹp. Kinh doanh
vô văn hóa là kinh doanh “chụp giật”, sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị không từ
bất cứ thủ đoạn nào.
I. Văn hóa doanh nghiệp là cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp hội nhập
thành công và có hiệu quả
Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận. Kinh doanh có văn hóa
là kinh doanh có mục đích và phương thức đạt được cái thiện, cái lợi, cái đẹp.
Kinh doanh vô văn hóa là kinh doanh “chụp giật”, sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị
không từ bất cứ thủ đoạn nào.
Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, được hình thành trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Các nền văn hóa của thế giới được hình thành trên nền
tảng hoạt động kinh tế và tôn giáo. Sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc bắt
nguồn từ việc buôn bán và truyền đạo. Hoạt động kinh doanh trên khía cạnh chung
nhất xuất hiện cùng với hoạt động kinh tế và văn hóa. Văn hóa dân tộc và văn hóa
kinh doanh hòa quyện, đan xen vào nhau. Nếu văn hóa dân tộc đang trong quá
trình hội nhập thì văn hóa kinh doanh đang góp phần quan trọng vào sự hội nhập
đó. Tham gia hội nhập kinh tế là thừa nhận “tính nhiều chiều, nhiều khía cạnh của
sự phát triển”, chấp nhận cạnh tranh, trong đó cạnh tranh về văn hóa có vai trò
quan trọng. Nếu coi văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc thì văn hóa kinh
doanh là cốt lõi của nền tảng đó. Một dân tộc muốn không bị “hòa tan” thì dân tộc
đó phải biết thích ứng, tự hoàn thiện để hợp tác, nắm bắt thời cơ, hội nhập kịp thời.
Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp nói chung cần
phải có ý thức tạo dựng cho mình một nền tảng văn hóa kinh doanh. Văn hóa kinh
doanh theo cách nói của người Việt là “cách ứng xử có văn hóa của doanh nghiệp”,
là “đạo lý của người kinh doanh”. Văn hóa kinh doanh không phải là “chất bôi
trơn” của giao tiếp mà văn hóa biểu hiện ở hành vi, tình cảm, tư duy của cả một
cộng đồng, một dân tộc.
Trong kinh doanh làm thế nào để chúng ta xây dựng được lợi thế cạnh tranh
của riêng mình? Làm thế nào để ta nổi bật lên so với thiên hạ? Văn hóa kinh

khách hàng”, ít có người nào cho đạo đức kinh doanh bao gồm cả hai. Điều đó
chứng tỏ khái niệm đạo đức kinh doanh ít được quan tâm.
Hành vi phi đạo đức trong kinh doanh ở Việt Nam chưa bị pháp luật xử
phạt nghiêm khắc, chưa bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ. Ví dụ: Công ty Vedan
xả nước thải làm ô nhiễm môi trường nhưng chưa bị xử lý nghiêm khắc. Nước
tương Việt Nam khi xuất khẩu sang Bỉ bị phát hiện có chất 3 - MCPD gây ung thư
ở động vật và người. Sự kiện này được báo chí trong nước đưa tin, lúc đó cơ quan
chức năng mới vào cuộc.
Lợi dụng yếu kém của các cơ quan chức năng và thiếu hiểu biết của người tiêu
dùng mà một số doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam đã vi phạm
quy định về môi trường như xả thải gây ô nhiễm nguồn nước, không có thiết bị
làm sạch không khí, không có thiết bị bảo hộ lao động làm cho tai nạn lao động
ngày càng gia tăng.
III. Những bất cập của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Trong quá trình hội nhập không ít doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành,
trụ vững và phát triển mạnh mẽ, để đạt được điều đó, một trong những nguyên
nhân chính là doanh nghiệp đã coi trọng văn hóa kinh doanh. Tuy nhiên, nhiều
doanh nghiệp do chạy theo lợi nhuận đơn thuần coi nhẹ vai trò, động lực của văn
hóa doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những tiêu cực ảnh
hưởng đến uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
- Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn, dựa vào may rủi: Phần lớn doanh
nghiệp Việt Nam xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, được nuôi dưỡng quá lâu
trong môi trường kinh doanh nặng về bao cấp. Chưa quen với tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Vì vậy, ít có khái niệm làm ăn lớn. Thiếu khát vọng và kiên nhẫn chờ thời
cơ, tâm lý “ăn xổi”. Điều đó hạn chế sự đầu tư của các doanh nghiệp tầm cỡ thế
giới. Trong khi có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đặt mục tiêu làm ăn lâu dài tại
Việt Nam thì doanh nghiệp Việt Nam chỉ tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư
mang tính đầu cơ như chứng khoán, đất đai, vàng bạc, lợi dụng sơ hở trong cơ chế
chính sách của nhà nước để kiếm chác, xoay xở theo kiểu “buôn chuyến ”, “nhất

trường thế giới được điều tiết bởi luật chơi khắt khe, tiêu chuẩn rõ ràng. Ngoài
những tiêu chuẩn mang tính ràng buộc của doanh nghiệp còn phải thích ứng với
thông lệ quốc tế. Các thông lệ này như tài sản chung của loài người. Chúng cấu
thành một phần không thể thiếu của văn hóa kinh doanh. Khi hội nhập văn hóa
doanh nghiệp phải “thích ứng”. Sự “ thích ứng” này không phải dễ dàng. Nhìn
chung các doanh nghiệp Việt Nam còn rất bỡ ngỡ với các tiêu chuẩn hội nhập như:
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, an toàn vệ sinh lao động và hệ thống quản
lý môi trường. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp phải thấm nhuần tư tưởng
hợp tác đôi bên cùng có lợi thay vì chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân mình. Làm
giàu phải được coi trọng. Người tài giỏi phải được tôn vinh. Chữ “tín” phải đưa
lên hàng đầu thay cho lối làm ăn thiển cận, chụp giật, đánh quả.
2. Nâng cao tố chất của doanh nhân Việt Nam
Doanh nghiệp như con tàu thì doanh nhân là người cầm lái con tàu đó.
Doanh nhân Việt Nam phải có dũng khí, khát khao làm giàu cho mình, cho doanh
nghiệp và cho tổ quốc. Doanh nhân Việt Nam phải có bản lĩnh, tự tin trước đối thủ
nước ngoài; Làm việc hết mình, bền bỉ theo đuổi, kiên trì chịu đựng để vượt qua
thử thách; Biết nhìn xa trông rộng, dám nghĩ dám làm. Văn hóa doanh nhân Việt
Nam thể hiện tính nguyên tắc trong đàm phán, ký kết hợp đồng, tính mềm dẻo,
lịch lãm trong giao tiếp. Muốn có được các tố chất đó cần phải rèn luyện trong thử
thách, đào tạo trong các nhà trường. Ví dụ, nguời Việt Nam có đức tính hài hước,
nếu biết sử dụng nó sẽ là món đòn lợi hại để mê hoặc đối phương - nghĩa là doanh
nghiệp Việt Nam phải biết tạo dựng giá trị cho doanh nghiệp mình. Nếu có thương
hiệu khách hàng sẽ tìm đến với doanh nghiệp mình.
3. Doanh nghiệp phải có tư duy và tầm nhìn toàn cầu
Doanh nghiệp Việt Nam phải khắc phục tư duy của người tiểu nông, nghĩ
ngắn, giản đơn, nặng về tâm lý chủ quan. Làm việc với đối tác, nhất là nước ngoài
phải có bản lĩnh, trí tuệ cao, giàu lý trí, có tính nguyên tắc chứ không thể “chín bỏ
làm mười”, “dĩ hòa vi quý”. Thiếu vốn, thiếu công nghệ có thể mua được, nhưng
thiếu tầm nhìn, thiếu bản lĩnh thì không thể mua được. Trường hợp ông Nguyễn
Xuân Vui - vua xuất khẩu lao động sang Trung Đông đã tâm sự: Làm xuất khẩu

doanh nghiệp nước ngoài. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp xúc, trao đổi với
doanh nghiệp nước ngoài bằng những cuộc tham quan, hội thảo, du lịch.
Tóm lại, bản sắc văn hóa đã được thấm sâu vào hoạt động kinh doanh. Quốc gia
giàu bản sắc văn hóa sẽ được biểu hiện qua hoạt động kinh doanh. Người chủ
doanh nghiệp sống có văn hóa thì doanh nghiệp của họ làm ăn sẽ có văn hóa. Việt
Nam đang trên đường hội nhập, ngoài việc nỗ lực vượt qua các thử thách trên
thương trường, cần phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thích ứng với văn hóa thế
giới. Văn hóa doanh nghiệp vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để hội nhập kinh
tế quốc tế thành công và hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, David H.Maister, Bản sắc văn hóa doanh nghiệp, Nxb Thống kê, H 2005, 301
trang
2, Dương Thị Liễu, Vai trò văn hóa trong phát triển kinh tế, Tạp chí Triết học, số 6,
2004, trang 55 - 60.
3, Đào Duy Quát (Chủ biên), Văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân trong
quá trình hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia, H 2007, 347 trang.
4, Nguyễn Hoàng Ánh, Văn hóa kinh doanh Việt Nam trên đường phát triển và hội
nhập, Tạp chí Hoạt động khoa học, Hà Nội số 3, 2005, tr 57-59


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status