LUẬN VĂN: Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ - sự hình thành và phát triển doc - Pdf 15

LUẬN VĂN:

Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa
Kỳ - sự hình thành và phát triển mở đầu


quyền của các nước trên thế giới. Chúng ta không phải học tập để sao chép máy móc mà
học tập với tinh thần cầu thị, học tập để chúng ta tìm ra và vận dụng những ưu điểm như
tác giả Thái Vĩnh Thắng viết trong Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, đó là những "hạt nhân
hợp lý trong tổ chức và hoạt động của chính phủ tư sản" [51, tr. 26] vào hoàn cảnh Việt
Nam, để xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân do dân và vì dân. Khi
nghiên cứu Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tác giả mong muốn làm phong
phú thêm kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật đồng thời cố gắng tìm những điểm
hợp lý và chưa hợp lý của mô hình này để có thể vận dụng một phần nào đó vào Việt
Nam: "Chúng ta có thể học hỏi được gì từ quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền; xây dựng một chính quyền mạnh và có hiệu quả" [21, tr.
9].
Riêng với Hoa Kỳ, Đảng và Nhà nước đã thực hiện chính sách: "Việt Nam mở
rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị và xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi" (Điều 14
Hiến pháp 1992), vì vậy Việt Nam và Hoa Kỳ đã bình thường hóa quan hệ và ký Hiệp
ước thương mại Việt - Mỹ. Việc tìm hiểu bộ máy nhà nước Hoa Kỳ cũng như pháp luật
Hoa Kỳ là công việc rất cần thiết để bảo vệ lợi ích của quốc gia vì khi chúng ta giao lưu
với đối tác nào, với quốc gia nào, chúng ta phải biết người biết ta "tri bỉ tri kỷ, bách phát
bách trúng". Ngoài ra, khi chúng ta nghiên cứu những định chế nhà nước Hoa Kỳ là
chúng ta đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và qua đó, thúc đẩy quan hệ Việt Nam
Hoa Kỳ càng tiến triển theo hướng có lợi cho hai nước, cũng như cho khu vực và quốc
tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây do Mỹ và Việt Nam ở hai bên trận tuyến của cuộc chiến tranh kéo
dài hai mươi năm, tiếp theo là chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam,
nên việc tìm hiểu nghiên cứu về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ không được giới nghiên
cứu luật học Việt Nam quan tâm nhiều. Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với
Mỹ thì việc tìm hiểu nghiên cứu về nhà nước Mỹ được quan tâm nhiều hơn. Nhà xuất

thống Hoa Kỳ, chưa lý giải tại sao Mỹ lại chọn chế độ Tổng thống khi xây dựng mô
hình chính quyền. Từ tình hình và lý do trên tác giả luận án mạnh dạn tiếp thu kế thừa
các kết quả nghiên cứu trên và đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu quá trình hình thành,
những đặc điểm nổi bật và sự phát triển của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ.
Mục đích của luận văn
- Trình bày quá trình hình thành và phân tích các đặc điểm chế độ Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ. Xem xét quá trình phát triển của chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông qua ba
ngành quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Từ những nghiên cứu trên, rút ra một số khuyến nghị với mong muốn đóng
góp chút ít vào kiến thức về nhà nước Mỹ để có thể vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa trên các
học thuyết chính trị pháp lý về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dùng các
phương pháp chứng minh, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp,
quan sát để tiến hành xem xét đánh giá các tài liệu, sự kiện.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trên cơ sở
lịch sử phát triển và trên cơ sở Hiến pháp Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chính thể cộng hòa Tổng thống Mỹ mà chủ
yếu hệ thống cơ quan quyền lực ở trung ương theo chiều ngang.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự hình thành chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Chương 2: Đặc điểm của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Chương 3: Sự phát triển của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.


ký dưới thời vua Giôn năm 1215 [55, tr. 168]. Còn Thông luật là luật pháp phát sinh từ
những phán quyết của tòa án gọi là phán quyết tư pháp để phân biệt với luật pháp do quốc
hội làm ra và ban hành [35, tr. 5]). Việc vua Anh ban Ân chiếu cho công ty Virginia kèm
theo các định chế pháp lý mà cư dân ở vùng đất mới này được hưởng là nhằm các mục
đích: Khẳng định vai trò của vua Anh với thuộc địa mới, duy trì pháp luật của Anh quốc
với các cư dân, động viên các cư dân vượt qua những khó khăn thách thức mà bất cứ
cuộc khai phá các vùng đất mới nào cũng gặp phải. Nhưng có điều mà vua Anh không ngờ
tới, đó là những định chế pháp lý của Anh quốc đã được người định cư vận dụng và rút
kinh nghiệm, để cùng với tư tưởng tìm kiếm tự do đã tạo tiền đề cho những người dân
định cư lập ra những định chế pháp lý để hạn chế quyền lực của Mẫu quốc, cũng như tìm
kiếm cho mình một mô hình chính quyền giống vua Anh nhưng cũng khác vua Anh:
Vào ngày 30 tháng 7 năm 1619 hội nghị đầu tiên các đại biểu người
Anh tại châu Mỹ được tổ chức tại nhà thờ của Jamestown (Jamestown là thành
phố đầu tiên được người định cư thành lập tại thuộc địa năm 1607). Ngoài vị
thống đốc và sáu cố vấn của ông, cơ quan lập pháp này gồm hai hai nhà tư
sản. Jamestown bầu ra hai đại biểu và mỗi đồn điền trong số mười đồn điền
bắt đầu mọc lên xung quanh Jamestown bầu ra hai đại biểu. Được gọi với cái
tên là viện các nhà tư sản, viện lập pháp này chính là mầm mống của ngành
lập pháp tương lai của Virginia [15, tr. 30].
Thực tế, trong hội nghị lập hiến 1787, bản kế hoạch của bang Virginia đệ trình về
xây dựng mô hình nhà nước Liên bang là nền tảng cho hội nghị này thảo luận và khi
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ra đời, chính bang Virginia đã cung cấp ba Tổng thống nổi tiếng
là Thomas Jefferson (1743-1826), James Madison (1751-1826), James Monroe(1758-
1834) và được gọi là" triều đại Virginia" [24, tr. 629]. Sự kiện người định cư đến
Virginia năm 1606 và nhất là sau khi xây dựng thành phố Jamestown năm 1607 về sau
được coi là lịch sử bắt đầu của nước Mỹ: "Lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ năm 1607, khi
nước Anh thành lập thành phố Jamestown, quản lý thuộc địa bằng luật pháp, bầu chính

Trước tiên, do người châu Âu tìm ra châu Mỹ do đó người đến định cư ở các
thuộc địa này là người châu Âu. Người đến định cư ở đây rất đa dạng có người Tây Ban
Nha, người Hà Lan, Pháp, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Đức, ý… Nhưng người Anh là
đông đảo nhất: "Phần lớn dân định cư tới Mỹ vào thế Kỷ XVII là người Anh, nhưng
cũng có cả người Hà Lan, Thụy Điển và Đức, một số tín đồ Tin lành Pháp, và các nhóm
rải rác người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ý" [29, tr. 40]. Điều đó cũng là dễ hiểu vì các
thuộc địa là của Anh nên người Anh đến đây là thuận lợi nhất và có nhiều giao lưu nhất.
Cũng trong thời gian này do vẫn còn duy trì chế độ nô lệ, vì vậy số người định cư còn
bao gồm cả số lượng nhân công nô lệ được mang từ châu Phi đến. Nghiên cứu đặc điểm
này giúp chúng ta giải thích vì sao các định chế chính trị pháp lý của Nhà nước Hoa Kỳ
lại có những nét giống với Anh quốc cũng như giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đấu
tranh để xây dựng chính quyền liên bang giữa các bang có chế độ nô lệ và các bang
không có chế độ nô lệ. Chúng ta cùng xem xét bảng thống kê sau:
Số người di cư đến vùng thuộc địa Anh ở châu Mỹ đến năm 1780
(Nghìn người)

Nhập cư trước
năm 1700
Nhập cư từ năm
1700 - 1780
Tổng số
Từ châu Âu 395 438 833
Từ châu Phi 344 1.303 1.647
Tổng số 739 1741 2480
Nguồn: [16].
Qua bảng thống kê trên chúng ta có một số nhận xét sau đây:
- Thời kỳ này người định cư chỉ gồm người châu Âu và người nô lệ châu Phi,

tự do, công bằng, sự mong muốn thiết lập một xã hội mới an ninh và thịnh vượng:
Hầu hết người dân Mỹ cho rằng thời kỳ di cư là giai đoạn anh hùng.
Những người đàn ông và đàn bà thường được cổ vũ bởi ý thức về sứ mệnh
thần thánh hay sự theo đuổi một cuộc sống trọn vẹn và công bằng hơn với cuộc
sống ở châu Âu đã không quản hiểm nguy gian khó vượt Đại Tây Dương, tấn
công vào sự hoang dại, dựng nên các khu định cư đông đúc và thịnh vượng, và
bằng cách nào đó vẫn có thời gian để tạo ra các thể chế tự do mà thậm chí
cho đến ngày nay vẫn là nền tảng của xã hội dân chủ [16, tr. 3].
Tất nhiên, bên cạnh những đức tính tốt đẹp đó, những người định cư còn mang
những tâm lý tiêu cực mà cuộc tranh giành vất vả để mưu sinh tạo nên như chủ nghĩa cá
nhân, tính tự do thái quá, luôn cạnh tranh để chiến thắng hay những mong muốn về
cuộc sống vật chất vô hạn độ: "Hơn một xã hội nào khác, xã hội Mỹ luôn luôn chạy đua
để thích nghi, để giành thắng lợi, Kẻ mạnh nuốt chửng kẻ yếu, đời là cánh rừng rậm,
trong đó khôn thì sống mống thì chết" [32, tr. 39]. Hay như nhà văn Pháp De
Tocqueville trong tác phẩm Luận về nền dân chủ Mỹ viết 1803 đánh giá: ở Mỹ mọi thứ
đều dựa vào mặt vật chất của cuộc sống, sự chiếm hữu của cải và sự thành đạt cá nhân
được đo bằng mức độ giàu sang, tâm lý ấy rất khó tranh khỏi dẫn đến tham lam vô hạn
độ.
Nghiên cứu về những động cơ của những người đến định cư ở Mỹ, cũng như
biết được tính cách của họ mới giúp chúng ta hiểu được cuộc cách mạng Mỹ, cũng như
quá trình những đại biểu của thuộc địa đấu tranh xây dựng hiến pháp Hoa Kỳ. Bởi vì rất
nhiều những tư tưởng những tính cách được phán ánh trong quá trình thảo luận xây
dựng hiến pháp cũng trong nội dung của hiến pháp.Ví dụ quyền tự chủ của các bang,
quyền tự do của người dân được thể hiện ở mười tu chính án đầu tiên.
1.2. Nhu cầu thành lập Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
1.2.1. Cách mạng Mỹ và sự ra đời của chế độ hợp bang
Kể từ năm 1607 đến năm 1829, mười ba thuộc địa của Vương quốc Anh đã

92]. Các chính sách này của chính quyền Anh đã làm cho người dân thuộc địa vô cùng
bất mãn và chỉ chờ cơ hội là bùng nổ thành cách mạng: "Các chính quyền nối tiếp nhau
tại Luân Đôn đã áp dụng những biện pháp tại chỗ xem là hợp lý, nhưng tại các thuộc
địa, chỉ có thể khơi lên ngọn lửa của cuộc nổi dậy. Cho tới lúc này, sự kháng cự chỉ là lẻ
tẻ và không có tổ chức" [15, tr. 93].
Trên đây là những mâu thuẫn xã hội là nguyên nhân của cách mạng Mỹ, nhưng
sẽ là sai lầm và chưa đầy đủ nếu chúng ta không đề cập đến đến các yếu tố và các điều
kiện khác đã trực tiếp khơi nguồn cho cách mạng Mỹ. Đó là sự phát triển về giáo dục,
văn hoá, tôn giáo ở thuộc địa, là sự tiếp thu các tư tưởng chính trị pháp lý tiến bộ của
Thế kỷ ánh sáng. Những tư tưởng tiến bộ này đã trở thành vũ khí lý luận cho những nhà
lập quốc Mỹ, nó đã tạo ra một thế hệ tài năng để sau này trở thành những nhà lập quốc
kiến tạo nên một mô hình chính quyền mới ở nước Mỹ:
Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất tạo nên khoảng cách mỗi ngày một
lớn giữa chính quốc và thuộc địa đó là sự phổ biến một cách hết sức rộng rãi
tại các thuộc địa các tư tưởng và học thuyết cộng hòa hoặc đầy nghi kỵ đối
với tất cả mọi hình thức độc tài và độc đoán của chủ nghĩa quân chủ. Các tác
phẩm của John Milton và John Locke gặp thấy ở đây mảnh đất rất đặc biệt
màu mỡ. Hai bộ khảo luận về chính quyền dân sự của J. Locke nhất là tập hai
được coi là chất chứa mầm mống của Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.
Khá nhiều người Mỹ, và cả tầng lớp có học, đã đồng ý với quan điểm táo bạo
của nhà tư tưởng người Anh này: nhiệm vụ cao cả của nhà nước là bảo vệ sự
sống, tự do và quyền tư hữu của mỗi công dân. quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân và nhân dân ủy quyền cho chính quyền. Chỉ là cơ quan được ủy
nhiệm, chính quyền có phận sự thi hành vì quyền lợi của những người ủy
quyền cho mình quyền bính họ đã giao cho mình. Nếu chính quyền vi phạm
những quyền tự nhiên của công dân, những người công dân có quyền và bổn
phận bãi nhiệm [15, tr. 89].

định tiến hành chiến tranh vũ trang với quân đội Anh; và hai là quyết định thành lập
Lực lượng vũ trang lục địa thay cho lực lượng dân quân thuộc địa, đồng thời cử đại tá
Geoge Washington (1732 - 1799) làm Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Mỹ. Dưới sự
lãnh đạo của Washington nhiều trận đánh ác liệt đã nổ ra, thắng có, thua có cuộc chiến
chưa có hồi kết, nhưng có điều được khẳng định là các thuộc địa đã thực sự tách khỏi
Anh quốc và chỉ chờ một tuyên bố chính thức mà thôi: "Vào ngày 10 tháng 5 tức là
đúng một năm sau Đại hội thuộc địa lần thứ hai, một nghị quyết đã được thông qua kêu
gọi ly khai. Lúc này chỉ cần một bản tuyên ngôn theo đúng thủ tục và nghi thức mà
thôi" [29, tr. 81]. Đáp ứng lời kêu gọi đó, một ủy ban gồm năm người do Thomas
Jefferson (1743 - 1826) người bang Virginia đứng đầu đã soạn thảo bản Tuyên ngôn và
được công bố vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, chính thức tuyên bố ra đời một quốc
gia mới, độc lập hoàn toàn với Vương quốc Anh. Về sau ngày 4 tháng 7 năm 1776 được
coi là ngày quốc khánh của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: "Trên phạm vi rộng lớn, tác phẩm
của Jefferson, Bản Tuyên ngôn độc lập được thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1776 không
chỉ tuyên bố ra của một quốc gia mới mà còn trình bày một triết lý về tự do của con
người, điều đó đã trở thành động lực trong toàn bộ thế giới" [29, tr. 82]. Tiếng vọng về
một tư tưởng tự do và độc lập trong Bản tuyên ngôn này, hơn một trăm năm sau, ngày 2
tháng 9 năm 1945, ở bên kia bờ Thái Bình Dương, lại vang lên một lần nữa trong Bản
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch để khai sinh một quốc gia mới là nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Sau khi tuyên bố độc lập với Anh, những người định cư ở các thuộc
địa đã lập ra nhà nước của mình. Đại hội lục địa lần thứ hai đã hoạt động như một nhà
nước liên bang: "Các điều khoản của Hợp bang được thông qua một cách khó khăn vào
năm 1777, được phê chuẩn còn khó khăn hơn nữa vào năm 1781, đã là những cố gắng
đầu tiên của các thuộc địa trên con đường đi đến một chính quyền trung ương" [15, tr.
121].
1.2.2. Những yếu kém của chế độ Hợp bang và nhu cầu thành lập Chế độ
Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ

dụng lý thuyết về phân quyền cũng như không thực hiện cơ chế đối trọng kiểm soát cân
bằng trong các ngành quyền lực nhà nước. Đây là những thiếu sót to lớn mà sau này các
nhà lập quốc Mỹ đã phát hiện ra và đã sửa chữa triệt để trong chế độ cộng hòa Tổng
thống sau này.
Đối với các tiểu bang, theo Điều II của Các điều khoản Hợp bang quy định:
"Mỗi tiểu bang vẫn duy trì chủ quyền, sự tự do và nền độc lập của mình và mọi quyền
khác không giao phó cho quốc hội của Hợp chúng quốc", vì thế, mỗi tiểu bang đều coi
mình giống như một quốc gia đều không chịu nhường quyền lực cho chính quyền liên
bang. Các bang đều đặt quyền lợi trực tiếp của mình lên quyền lợi của liên bang. Các
bang đều có hiến pháp có chính quyền và tự phát hành tiền, có nhiều bang tổ chức quân
đội: "Chín bang đã tổ chức quân đội riêng, một số bang có hải quân riêng. Còn tồn tại
rất nhiều các loại tiền xu và đủ mọi loại tiền giấy của quốc gia và của các tiểu bang, sự
đa dạng ấy khiến người ta phải ngạc nhiên, song tất cả các loại tiền đều mất giá nhanh
chóng" [29, tr. 96].
Về mối quan hệ của chính quyền liên bang với các bang là vô cùng lỏng lẻo,
Liên bang hầu như không thể phối hợp các nỗ lực của các bang với nhau và cũng không
thể đảm bảo thống nhất trong lãnh đạo. Chính quyền liên bang không điều hành dân
chúng trực tiếp mà thông qua chính quyền bang, nhưng lại không có khả năng buộc
chính quyền bang phải tuân theo các quyết định của liên bang. Nhược điểm này đã được
Hamilton (1755-1804) một nhà lập quốc nổi tiếng của Hoa Kỳ chỉ rõ:
Tuy chính phủ Liên Hiệp có quyền trưng dụng nhân lực và tiền tài,
nhưng lại không có thẩm quyền trực tiếp với các cá nhân công dân của Liên
Hiệp. Kết quả là tuy trên phương diện lý thuyết, những quyết định của chính
phủ Liên Hiệp là những đạo luật mà hiến pháp bắt buộc các tiểu bang phải
tuân theo, nhưng trên phương diện thực hành, những quyết định đó chỉ là
những đề nghị để tùy ý các chính phủ tiểu bang thi hành hay bác bỏ [44, tr.
55].

chẳng có uy tín trong con mắt của các nước châu Âu. Đó là một chính thể
cộng hòa đang bị tê liệt. Bất kỳ người dân nào cũng có thể suy đoán về một
kết cục thảm hại sẽ xảy ra [21, tr. 17].
Nguy hại cho Liên bang hơn nữa là bắt đầu có sự nổi dậy của dân chúng, mà
điển hình là cuộc nổi dậy năm 1876, với sự cầm đầu của một cựu đại úy quân đội lục
địa là Daniel Shays. Với tất cả những diễn biến như vậy thì sự sụp đổ của liên bang
giống như cơn giông tố đang lấp ló ở chân trời: "Từ trang trại đồng quê Mout Vernon,
Washington đã viết cho James Madison: tại thời điểm hiện nay, sự khôn ngoan, sự hiểu
biết và các tấm gương tốt là cần thiết để cứu hệ thống chính trị này khỏi cơn bão đang
treo lơ lửng… Tại mỗi tiểu bang đều có những mầm cháy, mà chỉ cần một tia lửa cũng
có thể bùng lên mầm cháy" [21, tr. 17]. Đến lúc này, thực tế chế độ Hợp bang đang
đứng trước hai con đường buộc phải lựa chọn: hoặc là tan rã hoặc là phải thay đổi thì
mới tồn tại được.
Nhận xét về chế độ Hợp bang:
Dưới góc độ lý luận, chế độ hợp bang được xây dựng trên cơ sở hiến pháp 1781
do đó cũng là một điểm cách mạng so với các mô hình nhà nước ở châu Âu, châu á thời
kỳ đó các nhà nước này vẫn là cha truyền con nối. Chế độ Hợp bang dựa vào Hiến pháp
1781 cũng đã hạn chế được sự chuyên chế độc tài vẫn thường xuất hiện trong chính
quyền bằng cách quy định mọi quyết định quan trọng dựa vào sự đồng thuận của các
tiểu bang. Về mô hình nhà nước, do không có hệ thống lý luận soi đường, nên nhà nước
Hợp bang không chú ý xây dựng ngành quyền lực hành pháp và tư pháp và do đó luật
và các quy định của hiến pháp đã không được các bang tôn trọng và thi hành. Về điểm
này Hamliton nhận xét: "Những thất bại mà chúng ta trải nghiệm không phải bắt nguồn
từ vài lỗi nhỏ lẻ nào, mà do những sai lầm căn bản, có tính nguyên tắc trong việc hình
thành chính quyền, và không thể sửa đổi, nếu không có những thay đổi cơ bản nhất về
mô hình chính quyền" [21, tr. 19]. Về mối quan hệ của nhà nước trung ương với các
bang đã không quy định rõ ràng, hay có quy định nhưng lại không có gì để bảo đảm nó


Thứ hiến pháp mà Hamliton, chính trị gia xuất sắc thuộc thế hệ thứ
hai của cuộc Cách mạng Mỹ, sau này trở thành một trong những kiến trúc sư
cho hệ thống chính quyền và kinh tế Mỹ, gọi là một sự khờ dại … và: Quốc
hội Hợp bang chỉ là nhóm chính trị gia có tầm nhìn hạn hẹp, những người dễ
dàng hi sinh mạng sống của binh lính và tương lai của toàn bộ dân tộc bằng
cách lãng phí thời gian trong những cuộc tranh luận vụn vặt, chứ không phải
những nghiên cứu, tranh luận thấu đáo hay suy xét kỹ càng, có tầm nhìn xa,
trông rộng, trong quá trình hình thành chính sách. chính quyền tổ chức theo
bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả trong thời chiến
[21, tr. 18].
Như vậy trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhà nước Hợp bang chưa phải
là nhà nước pháp quyền thực thụ, mà là một nhà nước kém hiệu quả và có nguy cơ sụp
đổ: "Nhiều người Mỹ coi các điều khoản của Liên bang không phân tách này là một sai
lầm" [46, tr. 26]. Hồ Chủ tịch khi nghiên cứu về cách mạng Mỹ cũng đánh giá như sau:
Đối với cách mạng Mỹ, Nguyễn ái Quốc cho rằng trong buổi đầu
Tuyên ngôn độc lập và các điều khoản của Liên bang về quyền con người là
tiến bộ. Song cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, một cuộc cách mạng
không triệt để, Tuyên ngôn độc lập và các điều khoản của Liên bang được
coi là hiến pháp đầu tiên của nước Mỹ, trong đó nói quyền lực tối cao thuộc
về nhân dân nhưng thực tế quyền lực đó rơi vào tay một số ít người, còn đa
số công nông vẫn cực khổ [33, tr. 109].
Tình hình đó làm xuất hiện một nhu cầu cấp thiết và cấp bách là cần một mô
hình chính quyền liên bang mới, vừa hạn chế được căn bệnh độc tài chuyên chế, vừa
hiệu quả, mạnh mẽ, để có thể tạo được an ninh và thịnh vượng chung, cũng như có thể
liên minh bền chặt giữa các tiểu bang trong một quốc gia thống nhất. Trước đòi hỏi như
thế, một hiến pháp mới đã ra đời, và cùng với các điều kiện khác, một chế độ mới được
xây dựng - Chế độ Tổng thống hợp chúng Hoa Kỳ.
quyền trung ương được tập trung nhiều quyền hành rộng rãi, nhưng quyền hạn của các
tiểu bang không được coi trọng, quyền hạn của công dân chưa được đề cập đến. Những
điểm này đã gây tranh cãi rất nhiều giữa đại biểu của các bang, giữa bang lớn và bang
nhỏ, giữa những người ủng hộ quyền dân chủ của công dân và những người ủng hộ một
chính quyền trung ương hùng mạnh.
* Phương án New Jersey
Phương án do bang New Jersey đưa ra gồm chín điểm. Trong đó những nội
dung chính của kế hoạch này là tăng cường thêm quyền lực cho quốc hội. Quốc hội có
quyền điều hành thương mại trong toàn quốc, quyền thu thuế. Các đạo luật của quốc hội
và những hiệp ước mà quốc hội thông qua sẽ là đạo luật tối cao bắt buộc đối với các
bang. Điểm bốn của kế hoạch này quy định quốc hội có quyền thành lập bộ máy hành
pháp và các viên chức của bộ máy này: "Quốc hội Liên minh chọn lựa bộ máy hành
pháp quốc gia bao gồm một số người giữ chức vụ trong một nhiệm kỳ một số năm, nhận
chính xác một lượng tiền nhất định, tại những thời điểm nhất định, bồi thường cho công
việc của họ" [21, tr. 87]. Theo phương án này quốc hội chỉ có một viện duy nhất, bộ
máy hành pháp sẽ do một nhóm cá nhân lãnh đạo, về quyền tư pháp thì theo điểm ba
của kế hoạch này quy định tòa án liên bang chỉ được trao quyền phúc thẩm. Như vậy
qua những điểm chủ yếu của phương án New Jersey thì mô hình chính quyền mới, chỉ
thay đổi và mở rộng thêm một số quyền mà chính quyền Hợp bang trước chưa có.
Phương án này được các bang nhỏ như New jersey, Delaware, Marylan ủng hộ. Về thực
chất mô hình chính quyền chỉ sửa đổi mô hình nhà nước Hợp bang mà thôi: "Thay vì đề
xuất một mô hình chính quốc gia mới, phương án của Paterson (1745 - 1806) - một đại
biểu của bang New Jersey (tức kế hoạch New Jersey) chỉ là một loạt sửa đổi đối với
Các điều khoản Hợp bang. Các đại biểu từ bang nhỏ đều tập hợp quanh phương án này"
[21, tr. 25]. Nhìn chung phương án Virginia được các bang lớn ủng hộ và cũng được
nhiều đại biểu của hội nghị hưởng ứng. Đánh giá về hai phương án, ông John Lansing
(1754 - 1829), một đại biểu của bang New York nhận xét: "Kế hoạch này (tức phương

pháp để những bang tự động muốn tham gia thì ký kết để hình thành liên minh. Nhưng
tất cả các mô hình này đều không được đưa ra thảo luận. Toàn bộ thời gian của hội nghị
dành cho phương án của bang Virginia, và của bang New Jersey. Có rất nhiều xu hướng
chính trị khi tranh luận về hai phương án này, nhưng tựu trung lại có hai xu hướng
chính. Một bên là các bang lớn (Massachusetts, Virginia, Pennsylavania) và một bên là các
bang nhỏ (Marylan, Delaware, New Jersey). Một bên là những người ủng hộ một chính
quyền liên bang mạnh mà đại diện tiêu biểu là Hamliton, một bên là những người muốn
bảo vệ chủ quyền của các tiểu bang và e sợ về một chính quyền mạnh, đe dọa đến quyền
của dân chúng và của các bang, tiêu biểu là Thomas Jefferson (1743-1826), người sau
này làm Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ. Một bên là các bang miền bắc như, New
hampshire, New York, Massachusetts và những người muốn xóa bỏ chế độ nô lệ, một
bên là các bang miền nam như Nam Carolina, Marylan, Delaware và những người muốn
duy trì chế độ nô lệ. Hai xu hướng, đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình thảo luận
để tìm ra một mô hình chính quyền, một chế độ mới để thay thế chế độ Hợp bang. Hai
xu hướng này, mà franklin (1706 -1790) một người được coi là nhà bác học Mỹ, trong
một buổi trò chuyện với bạn ông là Cutler franklin so sánh như một con rắn có hai đầu:
Ông franklin vừa mới nhận được ngày hôm nay con rắn hai đầu
ngâm trong chai rượu. Trong khi hai người nói tới con rắn kỳ lạ này, ông
franklin nói rằng con rắn này chắc chắn bị phiền nhiễu vì khi nó bò trong bụi,
nếu vướng vào một cành cây nào, nó sẽ không biết theo đầu nào và bò sang
phía nào. Chuyện con rắn hai đầu lại làm cho franklin nhớ tới một việc xảy ra ở
Hội nghị lập hiến, khiến Ông ví con rắn hai đầu đó như nước Mỹ [5, tr. 77].
Xu hướng phân đôi này, như trên đã nói, đã ảnh hưởng tới việc hình thành các
đảng phái chính trị ở Mỹ: "Trong buổi thảo luận, đại biểu Wilson đã thể hiện một kiến
thức và trí tuệ về nhà nước đặc biệt xuất sắc về bênh vực một mô hình chính quyền liên
bang mạnh. Nhưng Lansing, tiểu bang New York và Paterson tiểu bang New Jersey kiên
quyết đấu tranh đòi giữ lại quyền của tiểu bang. Sau này, quyền của tiểu bang là một trong

1865) lập năm 1854). Cuộc tranh luận của hai phe diễn ra rất gay gắt trong quá trình xây
dựng hiến pháp và cũng tác động rất lớn đến việc hình thành Chế độ Tổng thống: "Quá
trình thảo luận để đi đến hiến pháp là một quá trình đấu tranh giữa các trường phái tư tưởng
đại diện cho những lợi ích khác nhau, giữa những người chủ trương xây dựng một chính
quyền trung ương mạnh và những người ủng hộ duy trì chế độ quyền hành chủ yếu nằm
trong tay tiểu bang, giữa lợi ích nông nghiệp và lợi ích công nghiệp" [30, tr. 14]. Nội
dung chủ yếu của các cuộc tranh luận đó là chọn mô hình hình chính quyền nào? quyền
lực của liên bang và tiểu bang như thế nào cho phù hợp, làm thế nào để có được chính
quyền trung ương mạnh mà không thôn tính chủ quyền của các bang? Làm thế nào để
giữ được các quyền rộng rãi của công dân vừa giành được từ Anh quốc, vừa tránh được
tình trạng dân chủ thái quá và sự tiếm quyền của các tiểu bang. Hai phe còn đấu tranh
gay gắt về quyền đại diện và cách thức bầu cử hai viện của Quốc hội.

Trích đoạn Kiềm chế đối trọng và liên hệ phối hợp Tư pháp trong chế độ Tổng thống Hoa Kỳ được chú trọng Sự phát triển của ngành lập pháp Sự phát triển của ngành hành pháp Sự phát triển của ngành tư pháp
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status