Phân tích nội dung của liên minh công - nông - trí thức ở Việt Nam trong thời kỳ CNH HĐH đất nước ( qua văn kiện hội nghị TW 8 khoá 10 của đảng về vấn đề Tam nông ) - Pdf 15

Phân tích nội dung của liên minh công - nông - trí thức ở Việt Nam trong
thời kỳ CNH HĐH đất nước ( qua văn kiện hội nghị TW 8 khoá 10 của
đảng về vấn đề Tam nông )
Bài làm
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và
các mối quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa
vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã hội
và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng: "lịch
sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp"
và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu
không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong
bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.
Trong cương lĩnh của mình Đảng Cộng sản Việt Nam liên minh công -
nông là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân - mà nay là liên minh công -
nông - trí thức chính là cơ sở xã hội vũng chắc để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh và đó cũng chính là
thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc, đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “chỉ có khối liên minh công-nông do giai
cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để lật đổ các thế lực
phản cách mạng, giành lấy và cũng cố chính quyền của nhân dân lao động,
hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên
CHXH” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1989, trang 598)
*Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức Việt Nam
- Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp
công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra
1
đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có điều
kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình.
Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một cách tự

cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%).
Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với
mức độ phát triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp
về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng và sự phân hoá,
phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân trong các ngành
nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống nhất, sức mạnh đoàn
kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay so với thời kỳ trước đổi
mới.
Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ
phận công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính
độc quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức
thu nhập rất thấp.
Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri
thức, tầng lớp công chức, viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước,
quyền lực và vai trò của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp
tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ
chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công nhân thường bị
giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các
ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân
nhưng lại bị thiệt thòi hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ
phận công nhân nhà nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập
3
nên tác phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư
nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường
phải tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để
học tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận
công nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng chịu
làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở
thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu tư

cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội
ngũ công nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho
sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất
của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân -
nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân
Việt Nam (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công
nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu
xa là ở trình độ phát triển kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực
tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển
giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân
5


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status