báo cáo khoa học ' phân tích các nhân tố ảnh hưởng phát triển bền vững khai thác thủy sản vùng duyên hải nam trung bộ' - Pdf 15

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

77
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KHAI THÁC THỦY SẢN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
AN ANALYSIS ON SEVERAL FACTORS INFLUENCING SUSTAINABLE
DEVELOPMENT IN THE FISHING SECTOR OF THE SOUTHERN CENTRAL
COASTAL AREAS OF VIETNAM

Phan Thị Dung
Trường Đại học Nha Trang TÓM TẮT
Phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển các ngành và vùng. Bài viết này tập trung
luận giải những yếu tố tác động của điều kiện tự nhiên, lao động và tổ chức sản xuất trên tàu
cá, quản lý Nhà nước, các đặc trưng kỹ thuật tàu thuyền, các đặc trưng về ng
ư cụ cũng như thị
trường đến phát triển khai thác thủy sản vùng duyên hải Nam Trung bộ. Trên cơ sở đó đề xuất
một số gợi ý quản lý nhằm phát triển khai thác thủy sản trong vùng theo hướng bền vững như
là: Quản lý cấp Giấy phép khai thác, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ; quản lý việc đóng mới
tàu thuyền; đầu tư thiết bị và kỹ thuật khai thác.
ABSTRACT
Sustainable development on the basis of economic development, social development and
environmental protection requires a process of industrial and regional development. This paper is
concerned with a number of key issues such as natural conditions, fisherman and production
organization, State management, characteristics of fishing vessels, fishing equipments and
markets and fishing development of the Southern Central coastal areas of Vietnam. Based on this
research, some orientations for management of sustainable fishing development in this area such
as fishing license management, skilled workers training new boat building management, fishing

đơn thành phố Nha Trang, mẫu được chọn dựa theo cơ cấu công suất, phỏng vấn trực
tiếp chủ tàu lúc không mùa vụ và tuần trăng.
Phương pháp phân tích: Sử dụng tổng hợp các phương pháp như thống kê mô
tả, so sánh để đánh giá thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố đến phát triển khai thác
thủy sản trong vùng duyên hải Nam Trung bộ.
3. Kết quả nghiên cứu
Thứ nhất, Ảnh hưởng của đặc điểm tự nhiên đến phát triển KTTS
Địa hình có độ dốc cao thuận tiện ra khơi
Vùng DHNTB gồm các tỉnh nằm sát biển, đồng bằng nhỏ bé, địa hình dạng bãi
biển với bãi triều mài mòn, bãi biển tích tụ sóng, bờ biển có độ dốc lớn. Do đặc điểm
địa hình như vậy nên dân cư ở đây chủ yếu sống phụ thuộc vào biển, làm nghề KTTS.
Bờ biển có độ dốc lớn thuận lợi cho việc ra khơi của các nghề lộng và nghề khơi, tiết
kiệm chi phí di chuyển đến ngư trường trong vùng và ngược lại.
Khí hậu, thủy triều tương đối thuận lợi cho KTTS
Càng vào trong nhiệt độ càng ấm hơn và nhiệt độ cao hơn các vùng phía bắc,
trung bình số giờ nắng cao (14giờ/ngày), chiều hướng nhiệt độ tăng dần từ Đà Nẵng đến
Khánh Hòa, ảnh hưởng đến hoạt động khai thác, một số tàu ngư dân đã tận dụng điều
kiện này sản xuất các mặt hàng khô trên biển với chất lượng cao như mực khô, cá khô,
ruốc khô… Chế độ thủy triều khá phức tạp bao gồm nhiều tính chất thủy triều khác
nhau: Nhật triều không đều, bán nhật triều đều, bán nhật triều không đều với biên độ
thay đổi đáng kể, cản trở cho việc ra vào cảng của các tàu thuyền, đặc biệt ở các vùng
DHNTB có bãi ngang, bãi bồi, nhiều tàu bị mắc cạn trong quá trình ra vào cảng. Chính
vì vậy công tác nạo vét, khơi thông các cửa sông là một trong các quan tâm của ngư dân
khi ra vào cảng.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

79
Bão và áp thấp thường xảy ra ảnh hưởng phát triển khai thác
Theo tài liệu thống kê, hằng năm bão thường xảy ra vào tháng 10÷11 ở vùng Đà
Nẵng đến Bình Định, tháng 10÷12 ở vùng Phú Yên đến Khánh Hòa. Để hoạt động khai

Ngư trường khai thác thường xuyên thay đổi
Vùng DHNTB nguồn lợi gần bờ và gần các đảo với độ sâu mức nước khoảng
200m, nghề lưới kéo chỉ có vụ Nam với các ngư trường gần bờ, nghề câu vàng có cả hai
vụ với ngư trường từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa, tuy nhiên năng suất khai thác vụ Nam
cao hơn vụ Bắc. Nghề lưới rê có cả hai vụ, tuy nhiên ở vụ Bắc thì ngư trường tập trung
ở miền Trung hơn là vụ Nam đồng thời với nó là năng suất đánh bắt vụ Bắc cao hơn vụ
Nam. Tuy đánh bắt ở cả hai vụ Nam và Bắc nhưng vùng biển miền Trung có năng suất
thấp hơn miền Đông và Tây Nam Bộ. Các ngư trường xa bờ có khả năng cho năng suất
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

80
khai thác cao hơn gần bờ. Do phân bố năng suất các vụ khai thác khác nhau nên các tàu
thường xuyên phải di chuyển ngư trường về phía Bắc hoặc phía Nam 0 .
Thứ hai, Ảnh hưởng của lao động và tổ chức sản xuất đến phát triển KTTS
Dân cư đa phần có mức thu nhập bình quân thấp, nhưng cần cù chịu khó và rất
yêu biển. Theo kết quả điều tra của tác giả, có tới 95% thuyền trưởng đều xuất thân từ
dạng cha truyền con nối, phần còn lại tuy không có nguồn gốc là nghề biển nhưng khi
lập gia đình là nghề biển cũng được gia đình vợ truyền lại. Nguồn thu nhập của gia đình
ngư dân từ biển chiếm chủ yếu, có tới 95% cuộc sống phụ thuộc 100% từ KTTS. Chỉ có
5% có thu nhập từ nghề phụ (buôn bán nhỏ, làm bánh tráng, đan vá lưới…). Đời sống
của ngư dân quá phụ thuộc vào biển nên khi chuyển đổi nghề nghiệp hoặc định hướng
phát triển khai thác theo quan điểm bền vững phải tính đến sự chuyển đổi sinh kế cho
họ và những người trong gia đình. Bên cạnh đó, trình độ học vấn nói chung trong tàu rất
thấp, có người chưa đi học, tỷ lệ học vấn tiểu học của thủy thủ rất nhiều (82%), thuyền
trưởng (28%). Điều này hạn chế đến khả năng tiếp cận các công nghệ, kỹ thuật hiện đại
cũng như ý thức bảo vệ môi trường.
Tổ chức sản xuất trên biển tự phát, các tàu chưa thật sự liên kết với làm giảm
hiệu quả khai thác, bên cạnh đó, trình độ tổ chức quản lý trên các tàu còn bất cập, chưa
tạo được sự gắn bó các thủy thủ với chủ tàu, trình độ thuyền viên chưa được đào tạo…
là một trong các nhân tố ảnh hưởng PTBV trong KTTS.

Đơn vị tính: Chiếc
STT Địa phương
Họ lưới
kéo
Họ lưới
vây
Họ lưới rê Họ câu
Họ nghề
khác
Tổng
cộng
1 Đà Nẵng 655 51 265 516 550 2.037
2 Quảng Nam 893 312 458 389 1.460 3.512
3 Quảng Ngãi 1.053 502 751 525 1.089 3.920
4 Bình Định 396 1.115 537 2.840 1.531 6.419
5 Phú Yên 583 195 1.486 795 1.271 4.330
6 Khánh Hòa 1.246 956 468 546 2.600 5.816
Tổng họ nghề 2007 4.826 3.131 3.965 5.611 8.501 26.034
Tổng họ nghề 2000 4.925 2.882 4.541 3.647 5.522 21.517
% cơ cấu nghề 2007 18,54 12,03 15,23 21,55 32,65 100,00
% cơ cấu nghề 2000 22,89 13,39 21,10 16,95 25,66 100,00
Tỷ lệ 2007/2000 97,99 108,64 87,32 153,85 153,95 120,00
(Nguồn: Cục và các Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản)
Thông qua Bảng 1 cho thấy từ năm 2000 đến năm 2007 đã có sự chuyển dịch đáng
kể trong cơ cấu nghề khai thác ở vùng DHNTB, nghề câu đứng vị trí đầu với 5.611 chiếc
(chiếm 21,55%) sau đó là họ nghề lưới kéo với 4.826 chiếc (chiếm 18,54%) và họ nghề lưới
rê với 4.541 chiếc (chiếm 15,23%). So với cơ cấu chung của cả nước hiện nay thì nghề lưới
kéo vẫn chiếm chủ yếu (36,3%) trong cơ cấu nghề khai thác. Sự chuyển dịch cơ cấu nghề
theo hướng gia tăng nghề câu có thể lý giải bằng sự phát triển nghề câu cá ngừ đại dương ở
các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Thành phố Đà Nẵng có nghề lưới kéo phát triển

60,3
65,1
59,1
0,0
20,0
40,0
60,0
80,0
100,0
120,0
140,0
160,0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Công suất (CV)
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
Số lượng tàu xa bờ (chiếc)
Công suất BQ tàu xa bờ cả nước (CV/chiếc) Công suất BQ tàu xa bờ vùng NTB (CV/chiếc)
Số lượng tàu xa bờ vùng NTB (chiếc)

Hình 1: Số lượng và công suất bình quân tàu xa bờ 0
Thứ sáu, Ảnh hưởng của thị trường đối với phát triển KTTS

các cơ sở. Ngoài chế biến xuất khẩu còn các mặt hàng chế biến nội địa rất được thị
trường trong nước ưa chuộng đã có thương hiệu như nước mắm Nha Trang, Nam Ô…
Ngành chế biến cùng với nuôi trồng và khai thác đã đóng góp đáng kể cho kinh tế của
vùng và tạo ra một số thương hiệu cho sản phẩm thủy sản Việt Nam. Nhu cầu tiêu dùng
nội địa và xuất khẩu gia tăng làm tăng giá bán, kích thích khai thác thủy sản phục vụ
cho nhu cầu chế biến thực phẩm.
Bên cạnh đó, diện tích mặt nước nuôi trồng vùng DHNTB là 23.100 ha (chiếm
2,3% cả nước) sản lượng nuôi trồng chiếm khoảng 2% 0, vùng có nhiều cơ sở sản xuất
tôm giống, cá giống và có nhiều mô hình nuôi trên biển có hiệu quả: tôm hùm lồng, cá
mú bè, trai lấy ngọc… Sự xuất hiện nhiều trang trại nuôi chuyên canh chuyển đổi
phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và thâm canh
cũng như các cơ sở sản xuất giống thủy sản đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của nuôi
thủy sản tác động đến tăng cầu về thức ăn thủy sản phục vụ nuôi, đặc biệt các loài cá
nhỏ, giáp xác…thúc đẩy khai thác nghề lưới kéo đơn. Hoạt động nuôi trồng trong thời
gian qua phát triể
n mạnh, nhưng công tác qui hoạch và bảo vệ nguồn lợi chưa được thực
hiện triệt để dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, dịch bệnh xảy ra nhiều: bệnh đốm
trắng trên tôm sú, các bệnh khác trên tôm hùm, cá mú… là các đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế cao. Một số vùng nuôi trên biển, chất thải rắn từ vỏ các loài giáp xác đe dọa nơi
sinh sống các đối tượng thủy sản, làm suy giảm nguồn l
ợi ven bờ.
4. Một số đề xuất về quản lý nhằm phát triển bền vững khai thác thủy sản
Phát triển bền vững KTTS vùng DHNTB cần thiết phải có một hệ thống các giải
pháp đồng bộ về cả bốn thành tố là môi trường, kinh tế, xã hội và quản lý, nghiên cứu
này bước đầu đề xuất khía cạnh quản lý nhằm phát triển bền vững khai thác thủy sản.
Quản lý cấp Giấy phép khai thác trên cơ sở cơ cấu lại nghề
Trong vùng chỉ cho phép phát triển nghề câu (câu tay, câu mực đại dương, câu
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010


các qui định điều kiện giảng dạy, phương thức giảng gắn với thực tế khai thác của ngư
dân, kết hợp với việc hướng dẫn luật biển và các qui định bảo vệ nguồn lợi.
5. Kết luận
Khai thác thủy sản vùng DHNTB chịu ảnh hưởng của nhu cầu tiêu dùng thủy
sản, quản lý Nhà nước, đặc điểm kinh tế xã hội, truyền thống, tự nhiên… Khai thác thủy
sản vùng hiện nay được đánh giá là quá mức, tác động đến nguồn lợi cũng như đời sống
ngư dân, ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Nghiên cứu bước đầu đề xuất các giải
pháp quản lý KTTS theo hướng bền vững như: Xây dựng mô hình quản lý thống nhất
tàu cá, Định hướng đầu tư các thiết bị và kỹ thuật phục vụ khai thác, Quản lý việc đóng
mới tàu thuyền khai thác… Để phát triển bền vững cần có các nghiên cứu đầy đủ về
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

85
kinh tế, kỹ thuật, môi trường nguồn lợi cũng như đào tạo, giáo dục ngư dân và các bên
liên quan ý thức bảo vệ môi trường. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề,
chuyển đổi nghề khai thác - lồng ghép với các chương trình xã hội, đặc biệt công tác
dân số đối với ngư dân - khi thực hiện qui hoạch thủy sản.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Thủy sản (2006), Qui hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010
và định hướng phát triển đến năm 2020, Hà Nội.
[2] Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa (2007), Báo cáo số lượng tàu thuyền.
[3] Sở Nông lâm Thủy sản Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa (2008), Báo cáo tổng kết năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ 2008.
[4] Đào Mạnh Sơn và nhóm nghiên cứu (2003), “Nghiên cứu thăm dò nguồn lợi hải
sản và lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp phục vụ phát triển nghề cá xa bờ”,
Tuyển tập các công trình nghiên cứu biển, Hải Phòng.
[5] Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê Việt Nam 2007, Nxb Thống kê,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status