Khu phố cổ Hà Nội với việc phát triển du lịch của thủ đô Hà Nội - Pdf 15

KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH
CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN!........................................................................................ 4
PHẦN A:
Mở đầu và một số vấn đề chung của đề tài...........................................5
PHẦN B:
Nội dung của khóa luận..........................................................................7
CHƯƠNG 1:
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI ............................7
1.1. Phố cổ Hà Nội - giá trị truyền thống và hiện đại...............................7
1.1.1. Quan niệm về phố cổ.....................................................................7
1.1.2. Giá trị khu phố cổ.........................................................................9
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của khu phố cổ Hà Nội qua các
giai đoạn chính...........................................................................................13
1.2.1. Hà Nội thời kỳ tiền Thăng Long - thành Đại La:.....................13
1.2.2. Thăng Long thời Lý - Trần - Hồ................................................15
1.2.3. Thăng Long thời Lê - Mạc - Trịnh............................................18
1.2.4. Thăng Long - Hà Nội thời Tây Sơn và nhà Nguyễn thế kỷ XIX
.................................................................................................................19
CHƯƠNG 2:
NHỮNG TIỀM NĂNG CỦA KHU DI TÍCH KIẾN TRÚC -
LỊCH SỬ - VĂN HÓA PHỐ CỔ HÀ NỘI ĐỂ PHỤC VỤ DU LỊCH22
2.1. Khái quát chung về Khu Phố Cổ Hà Nội.........................................22
2.1.1. Vị trí địa lý, cảnh quan môi trường...........................................22
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
2.1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khu phố cổ Hà
Nội...........................................................................................................24
2.1.2.1. Khu phố cổ Hà Nội từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV......................24
2.1.2.2. Khu phố cổ Hà Nội từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX...................25
2.1.2.3. Khu phố cổ từ thế kỷ XIX đến nay.........................................26

3.1.1. Bảo tồn cảnh quan, kiến trúc phố cổ Hà Nội............................78
3.1.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.........................................82
3.2. Một số mô hình thu hút khách du lịch tới phố Cổ Hà Nội.............84
3.3. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, xúc tiến, quảng bá du lịch.....88
3.4. Tổ chức và quản lý lực lượng kinh doanh du lịch theo hướng đa
dạng hoá ngành nghề, chuyên môn hoá cao............................................90
3.5. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng du lịch..........91
3.6. Thiết lập city tour (chương trình du lịch nội thành) khám phá các
giá trị văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể của khu phố cổ..................92
KẾT LUẬN...........................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................99
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
LỜI CẢM ƠN!
Trong suốt bốn năm học qua, được sự chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô
giáo trong trường Đại Học Dân lập Đông Đô Hà Nội, em đã tiếp thu được
chút ít những kiến thức, kinh nghiệm quý báu để hôm nay trở thành một
người tri thức vững vàng và tự tin trong cuộc sống.
Luận văn tốt nghiệp của em tuy chưa phải là tổng kết tất cả những kiến
thức đã được trong suốt bốn năm đại học, nhưng nó là kết quả của một sự nỗ
lực cố gắng của chính bản thân mình. Bên cạnh đó, nhờ có sự giúp đỡ, hỗ trợ
của bố mẹ, của nhà trường cùng các thầy cô và các cô chú, anh chị trong Ban
Quản Lý Phố Cổ Hà Nội - nhất là dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo -
Trần Đức Thanh em đã hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này.
Con xin chân thành cảm ơn bố mẹ, những người thân mến nhất đã không
quản những khó khăn, vất vả của cuộc sống để nuôi dưỡng con trưởng thành
đến ngày hôm nay.
Em xin chân thành cảm ơn và gửi lời chúc sức khỏe đến các thầy cô
giáo.
Chân thành cảm ơn và chúc thành công với tất cả các bạn sinh viên lớp

góp nhỏ bé nhưng không kém phần thiết thực cho việc phát triển du lịch của
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
khu phố cổ Hà Nội trong bối cản phát triển du lịch của thủ đô, em đã cố gắng
thực hiện khóa luận này trong khả năng của mình.
2. Mục đích giới hạn của đề tài:
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu khu phố cổ Hà Nội để từ đó
đưa ra những ý kiến đóng góp cho sự phát triển du lịch của khu phố cổ Hà
Nội nhằm phát triển du lịch của thủ đô Hà Nội.
Giới hạn của đề tài là không gian khu phố cổ và các đối tượng tham gia
du lịch chính trong khu phố cổ Hà Nội.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài này sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp tổng hợp tài liệu
- Phương pháp điều tra thực địa (điền dã)
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn.
4. Bố cục khóa luận:
Phần A: Mở đầu và một số vấn đề chung của đề tài.
Phần B: Nội dung của khóa luận chia làm ba chương:
Chương 1: Lịch sử hình thành của khu phố cổ Hà Nội.
Chương 2: Khu phố cổ Hà Nội với hoạt động du lịch của thủ đô Hà Nội.
Chương 3: Một số biện pháp khai thác tài nguyên du lịch của khu phố
cổ để phát triển du lịch Hà Nội.
Kết luận.
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
PHẦN B:
Nội dung của khóa luận
CHƯƠNG 1:

Chính vì đặc trưng về sự đa dạng như đã nêu trên mà di tích lịch sử văn
hóa có rất nhiều định nghĩa, điển hình như:
- Theo đạo luật số 117 về bảo vệ bảo vật của Ai Cập (08/06/1983) thì:
"Di tích lịch sử văn hóa được coi là cổ vật bất động sản được làm ra từ các
nền văn minh khác nhau, hoặc là một sự sáng tạo nghệ thuật, khoa học, văn
hóa hoặc tôn giáo của thời đại tiền sử, hoặc các thời kỳ tiếp nhau của lịch sử
và ngược trở lên 100 năm khi tài nguyên đó có một giá trị quan trọng về khảo
cổ học hay lịch sử, là chứng cứ của nền văn minh khác nhau đã tồn tại trên đất
nước Ai Cập và những quan niệm lịch sử cũng đều được coi là cổ vật, kế cả
các di hài người và động vật cùng niên đại với thời kỳ ấy".
- Theo đạo luật số 16 về di sản lịch sử của Tây Ban Nha (25/06/1985)
thì: "Di sản lịch sử Tây Ban Nha bao gồm các bất động sản và các động sản
có lợi ích nghệ thuật, cổ sinh vật học, khảo cổ học, dân tộc học, khoa học
hoặc kỹ thuật . Cũng cả di sản tư liệu và thư mục, các lớp mỏ, các khu vực
khảo cổ cũng như các thắng cảnh thiên nhiên, các công viên, các vườn có giá
trị nghệ thuật, lịch sử hay nhân chủng học".
- Theo quy định trong Hiến chương Venice của Italia năm 1964, khái
niệm di tích lịch sử văn hóa bao gồm những chương trình xây dựng lẻ loi,
những di tích ở đô thị hay nông thôn, là bằng chứng của nền văn minh riêng
biệt, của một sự tiến hóa có ý nghĩa hay một biến cố về lịch sử.
- Theo pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh của Việt Nam (04/04/1984) thì: "Di tích lịch sử - văn hóa là những
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch
sử khoa học, nghệ thuật, cũng như có giá trị văn hóa khác liên quan đến cá sự
kiện lịch sử và quá trình phát triển văn hóa xã hội. Di tích lịch sử - văn hóa là
những không gian vật chất cụ thể, khách quan trong đó chứa đựng các giá trị
điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ta
trong lịch sử để lại.

Chính là để khu vực phía Đông của Hoàng thành, là khu thị dân với 36
phố phường nổi tiếng. Thực ra đó cũng là một con số mang ý nghĩa tượng
trưng. Thời Lê có 36 phường, khái niệm "phường" là để chỉ một tổ chức
người cùng làm một nghề hay là một đơn vị hành chính của thành Thăng
Long. Các phường chia làm ba loại: nông nghiệp, thủ công, buôn bán. Các
phường lấy tên nghề của mình đặt tên cho con phố nơi họ làm ăn, buôn bán và
sinh sống. Chính vì thế mà tên gọi cua các phố trong những câu ca dao
thường bắt đầu bằng chữ "Hàng". Ngày nay các phố nhìn chung vẫn giữ
nguyên tên gọi từ thời xưa, chỉ có các chức năng ban đầu đã được chuyển đổi
hoặc không còn tồn tại nữa. Phố cổ Hà Nội ngày nay mang trong mình những
giá trị riêng biệt, to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc và kinh tế
mà không một đô thị cổ nào có thể so sánh.
Lịch sử của khu phố cổ Hà Nội đã bắt đầu hình thành khi vua Lý Thái
Tổ chọn Thăng Long làm kinh đô năm 1010. Trải qua bao thăng trầm với biết
bao biến cố lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm và thời kỳ nội chiến kéo
dài, phố cổ Hà Nội đã không còn giữ được nguyên vẹn hình dáng ban đầu của
mình. Tuy thế nó vẫn luôn gợi lại quá khứ và lịch sử của một đô thị cổ hình
thành sớm nhất của Việt Nam. Dựa vào các di tích tồn hiện, các tài liệu văn
học dân gian cổ, sách sử ký, sách vở... về khu phố cổ mà các nhà nghiên cứu
chuyên ngành - liên ngành có những phát hiện khoa học có tính chất vô cùng
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
quan trọng. Đối với nhà nghiên cứu này thì khu phố cổ chính là một "bảo tàng
sống", một "trang lịch sử bằng đá".
Trải dài trong tiến trình lịch sử phát triển của mình, Thăng Long - Đông
Đô - Hà Nội, trong đó khu phố cổ là cái nôi văn hóa đã sản sinh và nuôi
dưỡng nhiều truyền thuyết, truyện kể dân gian, ca dao ... như Rồng vàng bay
lên, Rùa vàng đòi kiếm quý, vua chúa gặp tiền .. Mảnh đất "địa linh, nhân
kiệt" này sinh ra va thu hút không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước trong
mọi lĩnh vực: văn học, nghệ thuật cho đến chính trị, quân sự .. nhiều không

"thành". Khu vực phố cổ là nơi diễn ra hoạt động buôn bán sầm uất nổi tiếng
với các khu chợ: Đồng Xuân (Chợ lớn nhất Hà Nội, nằm ở trung tâm khu phố
cổ), Hàng Bè, Hàng Da.
Bản thân khu vực phố cổ cũng được coi là trung tâm buôn bán của toàn
thành phố. Người dân có thể tìm mua được tất cả những gì cần thiết cho sinh
hoạt hàng ngày cũng như những vật dụng đặc biệt, độc đáo không đâu có.
Không những thế, khu phố cổ Hà Nội còn là tuyến điểm du lịch hấp dẫn nhất
trong các tour du lịch nội thành Hà Nội đối với du khách trong và ngoài nước.
Do đó nó có giá trị kinh tế rất lớn đối với sự phát triển của du lịch. Đây có thể
coi là thế mạnh tuyệt đối của khu phố cổ Hà Nội nếu được khai thác cụ thể và
hợp lý.
Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc và kinh
tế nêu trên, cùng với việc được công nhận là di sản văn hóa cấp quốc gia
(2004) phố cổ Hà Nội chính là một “kho báu” quý giá của ngành du lịch Việt
Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng.
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của khu phố cổ Hà Nội qua các giai
đoạn chính
1.2.1. Hà Nội thời kỳ tiền Thăng Long - thành Đại La:
Hà Nội vốn là địa danh lâu đời được hình thành trên hai bên bờ sông
Hồng, giữa một đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ khi mới hình thành.
Hội tụ đủ những yếu tố thuận lợi, tính ưu việt của vị trí địa lý (tụ thủy),
nơi tập trung đông dân cư (tụ nhân), Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội có cơ
sở để được khẳng định là một trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị, khoa học,
xã hội … quan trọng bậc nhất nước ta.
Nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, độ cao trung bình ở khoảng 5-
20 m so với mặt biển, giới hạn địa lý được xác định từ 20
0
53 đến 21

vào giai đoạn đen tốt nhất trong lịch sử kéo dài gần nghìn năm Bắc thuộc.
Suốt thời kỳ Bắc thuộc bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược
nước ta đều đóng căn cứ địa ở những nơi bên tả ngạn sông Hồng, như thành
Long Biên. Đây là nơi đồn trú của quân xâm lược, nơi xưởng thủ công, phục
vụ cho quan lại, binh lính của bộ máy cai trị. Đó chính là những yếu tố tiền đề
quan trọng trong việc hình thành nên một đô thị lớn sau này. Giữa thế kỷ VI,
cuộc khởi nghĩa của Lý Bí - Lý Nam Đế thắng lợi. Cùng với sự ra đời của nhà
nước Vạn Xuân năm 544, Lý Nam đế cho xây dựng một thành luỹ bằng tre gỗ
đất dựng ở cửa sông Tô Lịch. Đây là thành lớn đầu tiên được xây dựng ở
vùng đất này và được sử sách ghi lại. Không lâu sau đó đầu thế kỷ VII nhà
Tùy (Trung Quốc) đem quân sang xâm chiếm, đặt thủ phủ của chính quyền đô
hộ gọi là An Nam đô hộ phủ ngay tại huyện Tống Bình - vùng đất cổ có thành
lũy của Lý Nam Đế tức Hà Nội ngày nay. Say nhà Tùy đến nhà Đường
(Trung Quốc) xây dựng La Thành được Tiết Độ Sứ Cao Biền mở rộng và
củng cố trở thành Đại La Thành năm 866. Trải qua những cuộc khởi nghĩa
của người dân tộc nước Nam như cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương
Phùng Hưng giành lại độc lập (776 - 791) hay Dương Thanh (819 - 820) đều
chiếm thành Đại La làm căn cứ. Đầu thế kỷ X đánh dấu sự tan rã của chế độ
phong kiến nhà Đường (Trung Quốc) cùng sự kiện hào trưởng Khúc Thừa Dụ
nổi dậy chiếm thành Đại La trở thành thủ phủ của dân tộc ta trong ba đời nhà
họ Khúc - Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ. Năm 930 nhà Nam
Hán (Trung Quốc) đem quân sang đánh chiếm nước ta bắt được Khúc Thừa
Mỹ và chiếm thành Đại La. Thành 3 năm 931 Dương Đình Nghệ phát quân
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
đánh đuổi Thứ sử Giao Châu và đánh tan quân tiếp viện của Nam Hán ngay
phía ngoài thành Đại La. Tháng 4 năm 937 Dương Đình Nghệ bị Kiều Công
Tiễn giết chết để tranh giành quyền lực.
Năm 938 Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán
trên sông Bạch Đằng, xưng vương và đóng đô ở Cổ Loa - kinh thành cũ của

Kim Ngưu Tô Lịch là sông bên này.
Kim ngưu chảy viền phía Nam Kinh thành, qua Giảng Võ, Ô Chợ Dừa,
Ô Cầu Dền đến đường Yên Thái (đường Hoàng Hoa Thám ngày nay)
Tô Lịch chảy viền phía Tây Kinh Thành, tả ngạn sông Tô từ nam Hồ
Tây đến Ô Cầu Giấy.
Phía Đông Kinh thành là hữu ngạn sông Hồng (sông Nhị Hà) từ Bến
Nứa đến Ô Đống Mác.
Thành Thăng Long với lối kiến trúc ba vòng thành bao bọc vào nhau và
kết cấu trong thành ngoài thị đã sớm được hình thành ngay từ ban đầu, trong
đó bao gồm Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành. Đó là ba nhân tố
quan trọng trong tổng thể đô thị đương đại của các nước phương Đông. Ba
thành phố này được sắp xếp theo hệ thống sau:
+ Kinh thành là nơi ở của thường dân và quan lại cấp nhỏ, bao bọc ra
bên ngoài cùng.
+ Hoàng thành là nơi vua ở, đồng thời là nơi làm việc của các quan lại
trong triều.
+ Bên trong Hoàng thành còn ngăn ra một khu nhỏ hơn được gọi là Tử
Cấm thành, có tường xây kiên cố, quân lính canh gác nghiêm ngặt ngày đêm.
Đây là nơi dành cho vua ở và sinh hoạt hàng ngày. Tất cả các cung tần, mỹ
nữ, cùng hoàng hậu và các con vua cũng sống ở đây.
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
Trong đó Tử Cấm thành là trung tâm hành chính - chính trị tối cao của
cả nước. Di tích còn sót lại là một lầu cửa Đoan Môn, một nền điện Kính
Thiên và một kỳ đài. Phía Đông Hoàng thành cho tới bờ sông Nhị Hà là cả
một bãi dải phù sa mà trên đó là cả một hệ thống các làng thủ công, một hệ
thống bến, chợ của Kinh Thành. Dân cư ngày càng an cư lập nghiệp, phố xã
cũng theo đó mà phát triển để rồi dần dần hình thành nên một khu đô thị đóng
vai trò trung tâm của cả nước. Các nhà làm nghề nông, những phường buôn
bán, những làng nghề thủ công thường tập trung theo lối phường hội để hỗ trợ

Sau một thời gian hưng thịnh, cơ đồ nhà Trần bị rơi vào tay Hồ Quý Ly,
nhà Hồ được thành lập trong thời gian vô cùng ngắn ngủi (1400 - 1407). Hồ
Quý Ly xây dựng đô thành Tây Đô ở Thanh Hóa, thành Thăng Long đổi ra
Đông Đô. Năm 1406 nhà Minh (Trung Quốc) đem 80 vạn quân sang xâm
lược Đại Việt. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, Đông Đô bị đổi tên
thành Đông Quan trở thành sào huyệt của địch. Chúng phá huỷ không biết
bao nhiêu là di sản văn hóa của Kinh thành Thăng Long.
1.2.3. Thăng Long thời Lê - Mạc - Trịnh
Năm 1418 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ dưới tài cầm quân tài ba
của Lê Lợi. Cuộc kháng chiến 10 năm thắng lợi, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi
hoàng đế ở Đông Đô, năm 1430 đổi ra Đông Kinh, năm, 1466 đổi gọi là Phủ
Trung Đô. Thành cũ được mở ra thêm ở hướng Đông. Khu dân cư được chia
thành hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Số người
đổ về Đông Kinh làm ăn buôn bán ngày càng nhiều, nhưng với tư tưởng Nho
giáo chủ trương "ức thương" nên nhà Lê không muốn phát triển thành phần
kinh tế - dân cư, chỉ duy trì số dân và quan hệ hàng hoá, tiền tệ của kinh đô
trong giới hạn.
Thế kỷ XVI triều Lê sụp đổ, năm 1527 triều mạc lên thay, trong thời
gian đầu đã tạo được tình trạng xã hội ổn định, công thương nghiệp năng
động. Phật giáo và Đạo giáo được phục hưng. Đông Kinh trở lại tên gọi là
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
Thăng Lon, vẫn là kinh đô. Được đáp thêm ban lần lũy đất bảo vệ thành. Nhà
Trịnh lấy danh nghĩa "phò Lê" đánh bại nhà Mạc năm 1592, xây Phủ chúa
Trịnh bên cạnh Hoàng thành. Hồ Gươm lúc này rất rộng gồm hai phần Tả
vọng (là phần hồ hiện nay), và Hữu Vọng, Hồ rộng đến mức có thể thao diễn
thủy chiến nên gọi là hồ Thủy quân. Nhiều công trình được xây quanh hồ và
trên hồ, tiêu biểu là cung Khánh Thuỵ (đền Ngọc Sơn ngày nay). Thăng Long
vẫn có bộ mặt phồn vinh và phát triển. Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa
và sự mở rộng quan hệ ngoại thương nên thế kỷ XVII - XVIII là giai đoạn

Các phường thôn phía Tây và Nam có xu hướng nông thôn hóa, chuyên
về nghề nông và có kết hợp thủ công. Bộ mặt đô thị của Hà Nội dồn phía
Đông và Đông Nam. Ở đây phố phường ngang dọc như bàn cờ nhà cửa kề
nhau. Khu Phủ chúa Trịnh (bị Lê Chiêu Thống cho phá năm 1787) và vùng
Hồ Gươm nhanh chóng trở thành khu dân cư, buôn bán và làm nghề thủ công.
Thời kỳ này các công trình văn hóa có nhiều biến đổi. Năm 1865 văn hào
Nguyễn Văn Siêu tổ chức xây dựng lại khu đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm, xây
trấn Ba Đình, dựng ở cửa đền Tháp Bút, Đài Nghiên. Năm 1842 Nguyễn
Đăng Giai cho xây dựng chùa Báo Ân trên nền cũ của lầu Ngũ Long bền bờ
Hồ Gươm. Phường Hòe Nhai. Phố Hàng Giấy trở thành nơi vui chơi giải trí,
đàn ca. Một số cửa ô được xây dựng lại, trong đó có ô Quan Chưởng (1817).
Năm 1858 giặc Pháp nã súng từ cửa biển Đà Nẵng vào đất liền báo hiệu
sự xâm nhập của chế độ thực dân. Năm 1873 Pháp đem quân ra Hà Nội đánh
thành. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chiến đấu anh dũng để giữ thành nhưng
do lực lượng mỏng vì triều đình nhà Nguyễn chủ hòa không phòng thủ, quân
Pháp vẫn chiếm được thành. Năm 1884 Tự Đức ký hiệp ước công nhận sự đô
hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Hà Nội nằm trong quy chế "Xứ
bảo hộ" thuộc Bắc Kỳ của chính quyền thực dân. Quy mô và bộ mặt của đô
thị cổ Hà Nội dần biến đổi. Giữa một không gian kiến trúc truyền thống đã
20
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
xuất hiện đan xen một kiểu đô thị mới theo kiến trúc đô thị phương Tây. Nhà
xây thời kỳ này chủ yếu bằng gạch và lợp ngói. Chính quyền thực dân cho lắp
sông Tô Lịch, bỏ đoạn nối sông Hồng và Hồ Hoàn Kiếm, cải tạo lại khu 36
phố phường của Hà Nội. Trong sinh hoạt và sản xuất có sự thay đổi từ hình
thức phong kiến sang hình thức tư sản một cách chậm chạp và thậm chí còn
song song tồn tại cả hai hình thức trong xã hội. Những ngôi nhà hàng phố một
tầng, mái ngói ta, kết cấu truyền thống cũng giảm dần theo năm tháng. Thay
vào đó là những ngôi nhà hình ống, dài và hẹp. Nhưng các đặc điểm truyền
thống của phố vẫn còn nguyên vẹn, các gia đình vẫn tiếp tục buôn bán các

Theo các nhà nghiên cứu thì khu vực Phố cổ hiện nay được hình thành từ
rất sớm, có bề dày gần 1000 năm và phát triển cùng lịch sử Hà Nội. Theo sử
cũ, khu vực Phố Cổ Hà Nội ra đời bên cạnh thành cổ. Đây là khu "thị" - khu
22
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
chợ buôn bán hàng hóa khá sầm uất phục vụ trực tiếp cho quan lại, công chức,
binh lính trong thành. Ban đầu khu phố này chỉ có vài chục phố phường, sau
phát triển lên 61 phố phường. Khu "thị" của Hà Nội thế kỷ XIX rộng hơn khu
vực Phố Cổ hiện nay về phía Bắc và phía Đông Nam. Tài liệu của Hoàng Đạo
Thuý đã chỉ ra rõ vấn đề này. Trong một cuốn sách khác, các nhà nghiên cứu
đường phố Hà Nội đã cho chúng ta thấy những con số khá khác nhau. Riêng
những con phố mang tên "Hàng" như Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Đào,
Hàng Mã....cũng đã có tới 50 tên phố.
Theo đánh giá, miêu tả của một số thương nhân nước ngoài Thăng Long
vào thế kỷ 19 thì hạt nhân của khu dân cư Hà Nội là khu buôn bán - thủ công
nằm giữa tỉnh thành và bờ sông Hồng. Khu này là một hình tam giác có đỉnh
là góc thành Đông Nam (chỗ phố Cửa Nam ngày nay) và dáy là bờ sông
Hồng dài độ 3 km. Hai cạnh bên, mỗi cạnh dài khoảng 2,5 km, một cạnh là
chính bức tường phía Đông của Thành, còn cạnh kia đi sát phía Bắc Hồ
Gươm ra đến sông Hồng. Nói tóm lại, nó ở trên mảnh đất mà bây giờ ta
thường quen gọi là "khu phố cổ". Các phố phường chợ búa tập trung chủ yếu
ở khu vực này.
Khu "tam giác trên", theo quy hoạch hiện nay là bao gồm toàn bộ khu
vực Phố Cổ, tuy không đầy đủ các phố phường như trước đây, một phần vì
khu vực phía Bắc và phía Đông Nam. Khu Phố Cổ có hiện tượng biến dạng
nhiều, một phần vì lý do quản lý, nên các nhà lãnh đạo thành phố đã quy
hoạch định ranh giới phố cổ hiện nay thuộc hoàn toàn địa bàn quận Hoàn
Kiếm, thiếu phần tam giác phía Bắc (thuộc quận Ba Đình)
Khu phố Cổ hiện tại là những khu phố nhỏ, chật hẹp. Các kiến trúc này
là dạng kiến trúc chợ phố nên các nhà thường sâu, thấp, tối... Hè phố nhỏ,

minh về trung tâm thành cổ.
24
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc d©n lËp §«ng §«
2.1.2.2. Khu phố cổ Hà Nội từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX
Khi nhà Hồ thay thế nhà Trần, Thăng Long không còn giữ vai trò Quốc
đô nữa mà có tên gọi là Đông Đô để phân biệt với thành Tây đô ở Thanh Hóa.
Năm 1406, khi nhà Minh chiếm Đông Đô, thì lại đổi tên gọi là Đông Quan
cho đến khi chiến thắng quân xâm lược, lấy lại Thăng Long - Đông Đô, sử
dung lại làm Quốc đô và đổi tên thành Đông Kinh. Trong giai đoạn này, triều
Lê tiến hành tu bổ xây dựng lại Đông Kinh theo mô hình Nho Giáo. Khu vực
Cấm thành và Hoàng thành được kiểm soát chặt chẽ, khu hành chính quan
liêu được lan rộng ra Hoàng Thành. Năm 1477 xây dựng lại vòng thành Đại
La ở ngoài cùng. Các năm 1477, 1500, 1516 ... đã tôn tạo và mở rộng Hoàng
Thành.
Năm 1435, Nguyễn Trãi viết Thăng Long có "một phủ lộ, hai thuộc
huyện, 36 phường", mỗi huyện có 18 phường. Lúc ấy ở vùng này thì đất vàng,
mềm, ruộng thì vào loại hạng trung. Phường Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, đồ
đài mâm, võng, gấm, và du lọng. Phường Yên Thái làm giấy, Phường Thụy
Chương và phường Nghi Tàm dệt vải lụa. ... Thăng Long 36 phường được gọi
từ đó.
Trong thế kỷ XVI, XVII và XVIII, sau cải cách của Lê Thánh Tông, nền
kinh tế của đất nước đã ổn định và phát triển. Vị thế thuận lợi của Thăng
Long đã khiến chốn Kinh Kỳ trở thành trung tâm hấp dẫn đối với địa phương
xung quanh, đặc biệt là làng thủ công nghiệp và các vùng phụ cận, đã dẫn một
luồng chuyển dịch lớn về hàng hóa, kéo theo nhiều đợt di động xã hội đến
Thăng Long. Theo Marini, vào thế kỷ XVII người ta đếm được ở đây có 72
phường... mỗi phường rộng bằng một thành phố trung bình của nước Ý. 72
phường này đầy thợ thủ công và thương nhân." Những ghi chép như vậy
trong Đại Nam Nhất Thống Chí của Trương Vĩnh Ký ... đều cho biết vào thế
kỷ XIX Thăng Long đều có rất nhiều mặt hàng riêng ở các phố vẫn không


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status