Đề tài thảo luận Thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ nhãn Lồng ở tỉnh Hưng Yên - Pdf 18

Đề tài thảo luận
Thực trạng sản xuất,
chế biến và tiêu thụ
nhãn Lồng ở tỉnh
Hưng Yên
1
MỤC LỤC
Đề tài thảo luận 1
Thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ nhãn Lồng ở tỉnh Hưng Yên 1
MỤC LỤC 2
I.GIỚI THIỆU CHUNG 3
II.NỘI DUNG 4
1.Thực trạng trong sản xuất nhãn Lồng ở Hưng Yên 4
1.1 Quy trình kỹ thuật sản xuất nhãn Lồng 4
1.2. Bí quyết thành công của các nhà vườn ở Hưng Yên là “Biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nhãn Lồng” 6
1.3. Hướng tới phát triển nông nghiệp hàng hóa 7
2.Thực trạng trong chế biến và tiêu thụ nhãn Lồng ở Hưng Yên 8
2.1 Chế biến nhãn 8
2.1.1 Chế biến long nhãn – Nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao 8
2.1.2 Chế biến long nhãn – Nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao 11
2.1.3. Khó khăn của các cơ sở chế biến 12
3.Thị trường tiêu thụ đặc sản nhãn Lồng 12
3.1 Kênh tiêu thụ sản phẩm 12
3.2 Những vấn đề tồn tại trong việc tiêu thụ sản phẩm nhãn Lồng ở Hưng Yên 13
3.4 Nhãn Lồng Hưng Yên cơ hội vào thị trường Mỹ và châu Âu 15
III. KẾT LUẬN 15
2
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN MÔN THỊ TRƯỜNG & GIÁ CẢ - NHÓM 7
Đề tài 6: “Thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ nhãn Lồng ở tỉnh Hưng Yên”
I. GIỚI THIỆU CHUNG

Từng trái nhãn, vị nhãn đều đậm đà một hương vị khó quên. Nhãn lồng Hưng Yên quả to
tròn, vỏ có màu vàng nâu nhạt, cùi dày, ráo nước. Bóc một lớp vỏ mỏng láng, để lộ lớp cùi nhãn
dày trắng ngà. Đưa vào miệng nếm thử có vị ngọt thơm, giòn dai. Bên trong là hạt nhỏ màu đen
nháy. Mùi hương cũng rất đặc trưng, đó không phải là một mùi thơm nức mũi mà nhẹ nhàng,
tinh khiết, dịu mát.
3
Nhãn lồng không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn là một nét đẹp trong văn hóa
người Hưng Yên. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của thiên tai, hương vị của nhãn lồng Hưng
Yên vẫn không bị mất đi mà mặc nhiên trở thành "thương hiệu" độc quyền mang nét đặc trưng
của vùng quê ấy. Tháng 8/2006, nhãn hiệu hàng hóa “Nhãn Lồng Hưng Yên” đã được đăng ký
bảo hộ bởi Cục sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học công nghệ. Sản phẩm mang thương hiệu Nhãn
Lồng Hưng Yên- hương vị tiến vua được xây dựng đảm bảo các tiêu chuẩn cần thiết gồm sản
phẩm quả tươi, nhãn sấy long, đóng hộp
Tuy nhiên, quá trình sản xuất, chế biến trái nhãn Lồng ở nơi đây còn có những khó khăn,
hạn chế và việc phát triển các kênh tiêu thụ sản phẩm, cũng như quản lý thương hiệu Nhãn Lồng
Hưng Yên còn nhiều nhược điểm đã dẫn đến những bất lợi cho người sản xuất lẫn người tiêu
dùng: Sản xuất nhỏ lẻ không tập trung thành vùng lớn, không đồng bộ về giống, các biện pháp
kỹ thuật thâm canh còn chưa được áp dụng hoặc áp dụng chưa đồng bộ, dẫn tới sản phẩm thu
hoạch không đồng đều, giảm sức cạnh tranh, điều này sẽ càng khó hơn khi nước ta gia nhập
AFTA, WTO nơi đòi hỏi cao về các tiêu chuẩn hàng hoá. Để đưa cây nhãn trở thành cây hàng
hóa có giá trị cao, cần phải có bộ giống tốt, rải vụ thu hoạch và kỹ thuật thâm canh tiên tiến, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Các giống hiện nay đang được
trồng phổ biến ở các tỉnh miền Bắc chủ yếu vẫn là các giống nhãn chín sớm và chính vụ có thời
gian thu hoạch ngắn dẫn đến tình trạng khó tiêu thụ, hiệu quả kinh tế thấp. Trước thực tế đó, đã
có nhiều những đề tài nghiên cứu ứng dụng sản xuất quả an toàn theo hướng VietGAP là hướng
đi mới trong giai đoạn hiện nay và đã thành công trên một số cây ăn quả như thanh long Bình
Thuận, vú sữa Lò Rèn (Tiền Giang).… Các kênh tiêu thụ không được tổ chức tốt, nhất là những
kênh hàng tiêu thụ sản phẩm chưa thực sự mang lại sự tin tưởng cho người tiêu dùng. Điều đó đã
làm cho thị trường Nhãn Lồng Hưng Yên có nhiều bất ổn, không thực sự đem lại hiệu quả cho
người sản xuất. Vì vậy, Nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng sản xuất, chế biến và

pháp khoanh vỏ, tỉa lá tác động làm tăng khả năng ra hoa; đậu quả; tăng năng suất, chất lượng và
tăng thu nhập cho người dân sẽ có ý nghĩa rất quan trọng.
Cây nhãn cần có một thời kỳ gần như ngừng sinh trưởng (thời kỳ ngủ nghỉ) để chuẩn bị
phân hóa mầm hoa (qua hai tiểu thời kỳ là tiền phân hóa hoa và phân hóa hoa), sau đó là ra hoa
và đậu quả. Từ sau khi đậu quả và trước khi quả chín có hai thời kỳ rụng quả chính: sau khi hoa
tàn khoảng một tháng thì xẩy ra rụng quả lần thứ nhất (chiếm 40% - 70% tổng số quả rụng), lần
rụng quả thứ 2 vào khoảng giữa tháng 6 đến tháng 7. Khi quả chín vẫn còn hiện tượng rụng quả
nhưng tỷ lệ rụng hầu như không đáng kể. Cùng với yếu tố thời tiết, khí hậu, sâu bệnh phá hại thì
hiện tượng thụ phấn, thụ tinh không hoàn toàn và thiếu chất dinh dưỡng đã gây ra hiện tượng
rụng quả hàng loạt ở nhãn
Bên cạnh nghiên cứu hoàn thiện qui trình kỹ thuật trực tiếp chuyển giao đến các hộ nông
dân, qua đó nâng cao trình độ kỹ thuật cho các sản xuất nông nghiệp. Xác định cây nhãn là một
trong những cây trồng đặc trưng đem lại hiệu quả kinh tế cao, nên ngay từ 1997 khi tái lập tỉnh,
Hưng Yên đã có chủ chương phát triển cây ăn quả Hưng Yên giai đoạn 2002 – 2005, trong đó
tập trung sản xuất giống nhãn. Năm 2002, qui hoạch phát triển NN và PTNT đến 2010 đã được
tỉnh phê duyệt với diện tích cây ăn quả toàn tỉnh là trên 11 nghìn ha, trong đó cây nhãn là 6
nghìn ha. Năm 2007 tỉnh tiếp tục có đề án “ Xây dựng và phát triển vùng nhãn hàng hoá giai
đoạn 2007 – 2015 với kinh phí 9,5 tỷ đồng.
Để làm được vấn đề này việc trồng mới và cải tạo vườn nhãn hiện có theo hướng sản
xuất hàng hoá được các địa phương và các hộ nông dân tích cực thực hiện, mỗi năm toàn tỉnh
trồng cải tạo và trồng mới được 150 – 200 ha. Ngành NN % PTNT và Khoa học công nghệ tiến
hành tuyển chọn bộ giống nhãn (Qua hội thi bình tuyển được 39 cây, trong đó có 11 cây được Bộ
NN và PTNT công nhận là giống nhãn lồng đặc sản đầu dòng quốc gia bao gồm 3 trà (Trà sớm,
trà chính vụ, trà muộn). Những giống nhãn được bình tuyển có trọng lượng quả từ 14 – 20g và
đạt từ 49 đến 72 quả/ kg, tỷ lệ cùi chiếm 65 %, hàm lượng đường từ 18 – 23%.
5
Năm 2000 – 2001 tỉnh xây dựng và nhân giống nhãn lồng đặc sản đầu dòng với quy mô 1
ha, chiết 369 canh chủ yếu từ 11 cây ưu tú xuất sắc về trồng. Vườn bảo tồn và nhân giống nhãn
lồng đặc sản đầu dòng tỉnh Hưng Yên là cơ sở sản xuất giống nhãn của tỉnh có các cây mẹ cung
cấp nguồn mắt ghép được qui tụ từ tất cả các cây nhãn lồng đặc sản đầu dòng đã qua bình tuyển.

vật, super lân, ngô, đỗ tương, bón kết hợp với các loại NPK, phân bón lá giàu kali, lưu huỳnh và
một số vi lượng khác để tăng độ ngọt cùi nhãn. Đồng thời theo dõi phòng trừ kịp thời các đối
tượng sâu bệnh hại như bọ xít, rệp muội đen, bệnh sương mai
Còn ở thành phố Hưng Yên, ông Trịnh Văn Thinh, Chủ nhiệm HTX nhãn lồng Hồng
Nam chia sẻ: Để nhãn ra hoa, đậu quả theo ý muốn thì ngay sau khi thu hoạch đã phải tiến hành
tuyển chọn những cây nhãn khoẻ mạnh, đủ sức nuôi quả. Ngoài ra các nhà vườn cũng nên nắm
6
bắt kịp thời diễn biến của thời tiết để có biện pháp áp dụng sao cho phù hợp với cây nhãn. Sau
khi tỉa cành, tạo tán, bón phân đầy đủ phải lựa theo thời tiết để tưới dung dịch KLC03 sao cho
phù hợp để thúc cây bật chồi, ra hoa. Khi tưới thuốc cũng phải thường xuyên theo dõi, nếu cây
chưa ăn thuốc, không có các dấu hiệu “tiền ra hoa” thông thường thì phải tiếp tục kích thích, tiện
cành, xới gốc. Khi nhãn đã ra hoa thì vẫn phải tiếp tục theo dõi, phun phòng trừ bệnh và linh
hoạt sử dụng nhiều biện pháp phối hợp như: trời rét quá thì bổ sung phân lân, ka-li, trời nóng thì
tưới dưỡng
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào trồng và chăm sóc nhãn ở tỉnh Hưng Yên thời
gian qua đã đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, thiết thực cho người nông dân. Đó không chỉ đơn
thuần là ứng phó với thời tiết, tăng năng suất, chất lượng quả nhãn mà còn khẳng định tính
chuyên nghiệp và thương hiệu của các nhà vườn nói riêng và uy tín vùng nhãn Hưng Yên nói
chung.
Theo số liệu thống kê, năm 2007 sản lượng nhãn toàn tỉnh đạt 36.000 tấn. Năm nay, với
diện tích 5.000ha ước tính sản lượng sẽ tăng cao hơn so với năm trước với 40.000 tấn quả. Năm
nay cả tỉnh thu ước từ 150 đến 200 tỷ đồng. Vùng thị xã và phụ cận có nhiều gia đình lập trang
trại, trồng toàn nhãn ghép và nhãn chiết giống quả to ngon. Nhãn là cây dễ trồng, không đòi hỏi
chăm sóc nhiều nhưng gốc cây phải được đắp cao. Sau 3 năm là có thể cho thu hoạch. Về giá trị
kinh tế, cây nhãn cao gấp 5 lần cây lúa.
Gian nan bảo vệ thương hiệu Nhãn Hưng Yên khi chín quả có màu vàng lịm, hạt nhỏ, cùi
dày, ăn giòn sần sật. Mỗi kilogam chỉ khoảng một trăm quả nhãn chín… Vì vậy mới có câu
“Tháng Sáu buôn nhãn bán trăm”. Nhãn lồng quả to, da láng, cùi dày, giòn thơm. Mùa nhãn ra
hoa đúng vào mùa mưa xuân, có ngày giá lạnh. Mùa quả chín vào tháng Sáu âm lịch. Đó chính là
thứ “nhãn tiến Vua” như sử sách đã ghi nhận. Ngày nay, các nhà khoa học giải thích đó là do thổ

lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển mạnh những cây trồng, vật nuôi có lợi thế, có thị trường
tiêu thụ; hình thành các khu công nghiệp công nghệ cao, vùng thâm canh, chuyên canh sản xuất
hàng hóa chất lượng, an toàn có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế.
Khuyến khích ứng dụng các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản
xuất gắn với quy hoạch vùng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để phát triển các cơ sở sản xuất
giống cây trồng, vật nuôi, đa dạng hóa các mô hình sở hữu; xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý
một số sản phẩm có lợi thế. Tiếp tục thực hiện tốt liên kết "bốn nhà", tiêu thụ nông sản thông qua
hợp đồng, gắn với các chính sách hỗ trợ khuyến khích thu hút các dự án sản xuất, chế biến, tiêu
thụ nông sản. Khuyến khích các mô hình nông nghiệp - công nghiệp, phát triển ngành nghề nông
thôn theo hướng "mỗi làng một nghề”. Khai thác các nguồn vốn đầu tư để cải tạo, xây dựng hạ
tầng kỹ thuật nông thôn theo hướng hiện đại, kết cấu kinh tế, xã hội hợp lý, có quan hệ sản xuất
phù hợp. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, phát triển các mô hình hợp tác, thực
hiện các chính sách thúc đẩy kinh tế hợp tác, kinh tế hộ, kinh tế tư nhân phát triển. Đổi mới và tổ
chức lại sản xuất nông nghiệp, gắn với việc dồn thửa, đổi ruộng và tích tụ ruộng đất; tổng kết, rút
kinh nghiệm và tiếp tục phát triển mô hình kinh tế trang trại, gia trại. Tăng cường công tác đào
tạo nguồn nhân lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; đa dạng hóa các loại hình đào tạo, cấp
đào tạo phù hợp với nhu cầu và điều kiện cụ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp trên địa
bàn tỉnh.
2. Thực trạng trong chế biến và tiêu thụ nhãn Lồng ở Hưng Yên
2.1 Chế biến nhãn
2.1.1 Chế biến long nhãn – Nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao
Ngoài việc tiêu thụ nhãn tươi, nhãn còn chế biến khô để lấy long nhãn làm thuốc trong
đông y hay để nấu chè rất ngon. Hàng năm, sản lượng thu hoạch đạt khoảng 25.000 tấn quả nhãn
tươi. Hiện nay, nhãn được tiêu thụ cho người tiêu dùng ăn quả, đóng hộp hoặc chế biến thành
long nhãn, có thể chế biến thành các phương thuốc.
8
Nghề làm long nhãn có ở nhiều nơi trong tỉnh như xã Phương Chiểu( Tiên Lữ), Liên
Phương( TP Hưng Yên).
Hồng Nam có gần 180 hộ sản xuất long nhãn. Thời vụ thu hoạch nhãn thường chỉ
kéo dài 35 đến 50 ngày, đây là thời kỳ bận rộn nhất của nghề làm long nhãn. Thời điểm này,

dụng để chế biến(tấn)
Tỷ lệ sử dụng
để chế biến (%)
2007
2008
2009
36.653
40.745
19.764
14.738,171
14.334,091
4.124,747
40,21
35,18
20,87

Nguồn: điều tra 2009
Qua bảng trên cho thấy: Tỷ lệ nhãn sử dụng cho chế biến không ổn định qua các năm
2008 chiếm 35,18% nhưng năm 2009 tỷ lệ này chỉ chiếm 20,87 % sản lượng thu hoạch. Điều này
cho thấy rõ nhãn chế biến phụ thuộc nhiều vào sản lượng nhãn cho thu hoạch. Năm 2009 do mất
mùa, giá nhãn quả tươi cao nên người dân chủ yếu tiêu thụ nhãn quả tươi, nên phần dành cho sấy
khô chỉ chiếm tỷ lệ 20,87 % sản lượng nhãn thu hoạch.
* Cách chế biến long nhãn :Vào tháng 7-8 dương lịch hằng năm khi nhãn chín đều, vỏ
quả ngả màu vàng thì thu hoạch.
9
Nguyên liệu đầu vào:
- Các chủ lò sấy mua nhãn thường mua trực tiếp của một số thu gom trong và ngoài địa
phương mang tới tận nhà hoặc mua qua chợ Dầu. Do đó có hệ thống cung ứng thường xuyên,
có thời điểm khan hiếm thì hỏi phải trực tiếp đi thu gom.
- Nhãn tươi chế biến tại đây chủ yếu mua từ các nguồn ngoài tỉnh ( chiếm tới 80% sản

phương pháp thủ công như đốt lò than nên chất lượng sản phẩm chưa cao, không đồng đều về
màu sắc, hình dạng, nên chưa đáp ứng yêu cầu thị trường cho xuất khẩu.
Bên cạnh đó long nhãn là vị thuốc quý được chế biến từ cùi (thịt) của trái nhãn. Theo
đông y, long nhãn vị ngọt, tính bình, tác dụng bổ huyết, dưỡng tâm, an thần, ích trí.
Chủ trị các chứng thiếu máu, suy nhược cơ thể, mệt mỏi, mất ngủ, hay quên, tim hồi
hộp, loạn nhịp, lo nghĩ quá nhiều, ăn uống, tiêu hoá kém. Dưới đây là một số cách chế biến món
ăn cho dược thiện dễ làm từ long nhãn:
10
Long nhãn ngâm rượu: long nhãn không giới hạn, ngâm vào rượu trắng khoảng 100 ngày,
mỗi ngày uống 1 – 2 chén nhỏ, giúp chữa hoa mắt, chóng mặt.
Cháo long nhãn hạt sen: long nhãn năm cái, hạt sen 15g, gạo nếp 30g. Nấu cháo ăn.
Mỗi ngày vào buổi sáng và buổi chiều. Món này giúp chữa suy nhược, thiếu máu
Long nhãn nấu đường: long nhãn tươi 300g, đường kính trắng 500g, hai thứ bỏ vào
chưng kỹ, để nguội cho vào lọ kín. Mỗi lần ăn 12 – 16g, ngày hai lần. Tác dụng bổ khí huyết, an
thần.
Long nhãn đậu ván: long nhãn 20g, đậu ván 60g, táo tàu 15 quả. Sắc uống, ngày một
thang, trị chứng thiếu máu.
Nước sắc long nhãn: long nhãn 16g, đương quy 12g, hoàng kỳ 12g, thục địa 16g. Sắc
uống ngày một thang, chia hai lần, uống ấm. Điều trị chứng thiếu máu, mất ngủ, thể trạng mệt
mỏi, đoản hơi.
Đem cả chùm nhãn nhúng vào nước sôi 1-2 phút để diệt men, rồi phơi nắng, sau đó
sấy ở nhiệt độ 40-50oC trong 30-40 giờ đến khi quả khô lại, cùi nhãn tách khỏi vỏ, lắc quả có
tiếng lọc xọc. Bỏ vỏ quả, lấy cùi nhãn sấy tiếp ở nhiệt độ 50-60oC đến khi khô, nắm không dính
tay, các cùi không kết dính vào nhau. Để nguội, đóng gói bảo quản trong các chum, vại sành để
nơi thoáng mát.
Long nhãn khô đều, không dính kết vào nhau, vị ngọt đậm, màu vàng nhạt, độ ẩm tối
đa không quá 18% là loại tốt.
2.1.2 Chế biến long nhãn – Nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao
Hưng Yên là một tỉnh có đặc sản nhãn lồng nổi tiếng, hàng năm, sản lượng thu hoạch đạt
khoảng 25.000 tấn quả nhãn tươi. Hiện nay, nhãn được tiêu thụ cho người tiêu dùng ăn quả,

2.1.3. Khó khăn của các cơ sở chế biến
Cơn bão tài chính trên thế giới đang diễn ra hiện nay, không chỉ ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp lớn, mà còn tác động trực tiếp đến các làng nghề truyền thống ở nước ta. Các cơ sở
sản xuất sắt thép ê chề do giá dầu thô giảm, nhu cầu xây dựng tụt dốc đã đành, nhưng ngay cả
hàng nông sản chế biến cũng không thoát khỏi cảnh này. Hưng Yên nổi tiếng với đặc sản long
nhãn cũng đang . . . khóc dở mếu dở do giá xuống kỷ lục. Ông Nguyễn Văn Long, chủ một lò
sấy long nhãn ở địa phương này chia sẻ, từ đầu năm giá xăng dầu tăng cộng thêm giá nhân công
leo thang, lãi suất ngân hàng cao khiến cho đầu vào chế biến long nhãn tăng vọt trong khi nhu
cầu thị trường sụt giảm mạnh. Trước tình cảnh này, hàng loạt cơ sở chế biến long nhãn ở Hưng
Yên phải ngừng sản xuất. "Hàng không bán được mà đi vay vốn ngân hàng để thu mua nhãn về
chế biến lúc này thì chẳng khác nào mua dây tự trói mình" - ông Long phân bua.
Tắc đầu ra long nhãn làm cho người người trồng nhãn ở Hưng Yên lao đao. Bà Phạm
Thảo Lan (TX Hưng Yên) ngồi nhìn đống nhãn khô không tiêu thụ nổi bộc bạch: "Tôi không thể
hiểu nổi, thời buổi giá cả tăng cao đáng lẽ giá nhãn ngon đầu mùa phải đạt 25 - 30.000 đồng/kg,
vậy mà chỉ bán được 12.000 đồng.
Long nhãn chất đống ở Hưng Yên chưa biết tiêu thụ bằng cách nào thì các đầu mối bao
tiêu XK long nhãn ở Lạng Sơn cũng đang đầy kho do đầu ra là thị trường Trung Quốc chưa khai
thông. Đại diện Công ty Minh Hoà chuyên XK long nhãn sang Trung Quốc nhận định: "Nếu tình
trạng này kéo dài đến năm 2009 thì nhiều DN chế biến long nhãn sẽ đi đến chỗ phá sản”.
3. Thị trường tiêu thụ đặc sản nhãn Lồng
3.1 Kênh tiêu thụ sản phẩm
Kênh tiêu thụ có thể được coi là con đường đi của sản phẩm từ người sản xuất đến người
tiêu dùng cuối cùng. Nó cũng được coi như một dòng chuyển quyền sở hữu các hàng hóa khi
chúng được mua bán qua các tác nhân khác nhau. Một số người lại mô tả kênh tiêu thụ là các
hình thức liên kết lỏng lẻo của các công ty để cùng thực hiện mục đích thương mại. Các định
nghĩa trên xuất phát từ các quan điểm khác nhau của người nghiên cứu.
Người sản xuất chú ý các trung gian khác nhau cần sử dụng để đưa sản phẩm đến tay
người tiêu dùng. Vì vậy, họ có thể định nghĩa kênh tiêu thụ là hình thức di chuyển sản phẩm qua
các trung gian khác nhau.
12

nào bị ảnh hưởng khó cạnh tranh với các loại nhãn nhập từ nước ngoài. Mặc khác, tuy là vựa
nhãn lớn nhất nước nhưng vẫn chưa có doanh nghiệp nào đầu tư vào lĩnh vực thu mua và chế
biến nhãn tươi theo quy mô công nghiệp nên người dân vẫn gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ.
Mỗi khi thu hoạch nhãn, người dân vẫn tiêu thụ theo cách truyền thống như bán nhãn tại chợ,
bán cho các cơ sở chế biến long nhãn.
Thời gian gần đây người trồng nhãn mới ký hợp đồng với các siêu thị khách sạn, nhà
hàng nhưng số lượng không đáng kể. Do vậy, thương lái luôn chèn ép nên giá rất rẻ. Nhãn đầu
mùa có giá từ 20.000đến 25.000đ/kg nhưng đến giữa vụ khi thu hoạch đại trà chỉ còn 10.000
đồng/kg. Trong khi đó, mùa thu hoạch lại trúng vào mùa mưa, thời gian thu hoạch ngắn nên
nhiều quả nhãn bị thối, rụng khó bảo quản. Nhưng ngay ở Hưng Yên, không phải vùng trồng
13
nhãn nào cũng trồng được nhãn lồng. Thực chất từ trước đến nay nhãn lồng chỉ trồng chủ yếu ở
6 xã miền đông huyện Tiên Lữ gồm: Hồng Nam, Hồng Châu, Liên Phương, Trung Nghĩa, Quảng
Châu, Thiện Phiến.
Theo người dân nơi đây, cây nhãn lồng chỉ phù hợp với thổ nhưỡng của 6 xã trên, đem
sang vùng khác là chất lượng kém hẳn, còn đem sang tỉnh khác thì không thể gọi là nhãn lồng
nữa. Cả tỉnh hiện nay có khoảng hơn 5.000 ha trồng nhãn. Tháng 8/2006, Cục Sở hữu Trí tuệ
(Bộ Khoa học và Công nghệ) đã về đây nghiên cứu và cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá cho sản phẩm “Nhãn lồng Hưng Yên” –“hương vị tiến vua” gồm sản phẩm quả tươi,
long nhãn sấy khô và đóng hộp. Ngay trong “vương quốc” nhãn Hưng Yên, cũng có rất nhiều
giống nhãn khác nhau: như nhãn Đường phèn, nhãn Hương Chi, nhãn nước… trong đó nhãn
Hương chi và Đường phèn (nhãn lồng) mới là loại nhãn ngon .Cây nhãn có từ bao giờ, chưa có
sử sách nào ghi chép chính xác nhưng theo những tài liệu hiện có thì chí ít cũng không dưới
300 năm. Bằng chứng, tại xã Hồng Châu vẫn còn cây nhãn tổ được Trung ương Hội làm vườn
Việt Nam xác định trên 300 năm tuổi.
Ông Nguyễn Danh Phương, một người có tuổi trong xã Hồng Châu cũng không thể nhớ
được, ông chỉ biết từ khi ông còn bé cây nhãn tổ đã xum xuê lắm rồi. Nhưng cũng như tất cả
người dân trồng nhãn hiện nay, ông Phương cũng trăn trở bởi nỗi lo thương hiệu nhãn tiến vua
đang ngày giảm sút do sự trà trộn của các loại nhãn chất lượng kém từ các địa phương lân cận.
Nỗi lo nữa về giá cả. Tuy không giống như vải nhưng giá nhãn cũng đang biến động theo hướng

Global GAP đặt ra. Có được sự hỗ trợ thực hiện quy trình Global GAP để đưa loại trái cây này
vào Hoa Kỳ nhanh hay chậm là do nông dân quyết định. Đây là cơ hôôịvàng không phải lúc nào
cũng có, nên cần nắm bắt ngay.
Theo các chuyên gia, sản phẩm “Nhãn lồng Hưng Yên” muốn đạt được cả về giá trị hữu
hình (chất lượng sản phẩm) và giá trị vô hình (thương hiệu) thì cần phải cải thiện về nguồn
giống, quy cách trồng, đóng gói, bảo quản, tiêu thụ, quản lý chất lượng… Đặc biệt, việc xác định
chỉ dẫn địa lý-xuất xứ “Nhãn lồng Hưng Yên” giúp đăng ký và quảng bá thương hiệu, tránh thiệt
hại cho người tiêu dùng. Đồng thời, tăng cường mối quan hệ hợp tác và kinh doanh giữa sản
xuất, chế biến, thương mại và dịch vụ “Nhãn lồng Hưng Yên” trên cả nước và nước ngoài.
Từ đầu năm 2008 đến nay, người trồng nhãn ở Hưng Yên đã được Viện Nghiên cứu rau
quả Trung ương và Sở NN và PTNT tỉnh Hưng Yên hướng dẫn trồng, chăm sóc, thu hoạch nhãn
theo tiêu chuẩn VietGAP.
Chương trình được thực hiện tại 8 xã thuộc thị xã Hưng Yên và huyện Tiên Lữ. Việc
thực hiện đại trà chương trình này không chỉ giúp nhãn lồng Hưng Yên cạnh tranh được với nhãn
Trung Quốc, Thái Lan, mà còn góp phần quan trọng vào việc đưa nhãn lồng Hưng Yên đến các
thị trường khó tính như Mỹ, Đức…
Để nhãn lồng Hưng Yên, có sản lượng ổn định, đồng đều, chất lượng ngon, thơm, ngọt,
cùi giòn và xây dựng được thương hiệu, xác lập quyền bảo hộ chỉ dẫn địa lý-xuất xứ tên gọi hàng
hóa “Nhãn lồng Hưng Yên”, Trung tâm phát triển nông thôn-Viện Chính sách chiến lược phát
triển NN-NT và Tổ chức hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ) đã phối hợp cùng Sở NN-PTNT, Sở Khoa
học và Công nghệ , Hội nhãn lồng tỉnh Hưng Yên thực hiện dự án “Hỗ trợ củng cố chuỗi giá trị
sản phẩm: Nhãn lồng tỉnh Hưng Yên”. Mục đích của dự án là nhằm liên kết các hộ sản xuất
nhãn, xây dựng qui trình sản xuất tập thể đảm bảo ổn định sản phẩm và chất lượng sản phẩm; kết
nối với thị trường tiêu thụ và quảng bá sản phẩm; nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường trong nước và tiến tới thị trường quốc tế.
Cố vấn của GTZ, đơn vị giúp HTX nhãn lồng Hồng Nam (thị xã Hưng Yên) trong việc
xây dựng thương hiệu sản phẩm khẳng định rằng, nhãn lồng Hưng Yên hoàn toàn có thể xuất
khẩu được vào những thị trường khó tính.
III. KẾT LUẬN
15


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status