Nghiên cứu tình hình thiếu máu nhẹ cân và các yếu tố liên quan ở trẻ em từ 2 tháng đến 5 tuổi tại xã hương hồ thừa thiên huế - Pdf 18

LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
chúng em. Các kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Huế, tháng 6 năm 2009
Người làm cam đoan
Trần Tiến Dũng - Lưu Văn Thìn
1
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
SDD : Suy dinh dưỡng
UNICEF : Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
WHO : Tổ chức y tế thế giới
TB : Trung bình
TM : Thiếu máu
TC : Tiêu chảy
VP : Viêm phổi
IMCI : Chiến lược xử trí lồng ghép bệnh trẻ em
TĐVH : Trình độ văn hoá
CN : Cân nặng
CĐ – ĐH : Cao đẳng - Đại học
2
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Một số vấn đề chiến lược phòng chống suy dinh dưỡng và
thiếu máu hiện nay 3
1.2. Định hướng chiến lược phòng chống suy dinh dưỡng - thiếu máu 3
1.3. Dịch tễ học suy dinh dưỡng 5
1.4. Sơ lược tình hình suy dinh dưỡng trẻ em 5
1.5. Chế độ nuôi dưỡng đúng dành cho trẻ dưới 6 tháng đến 5 tuổi 9

cho trẻ dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển [7]. Theo Tổ chức Y tế thế giới
(9/1980), mỗi năm tại các nước đang phát triển có 10,4 triệu trẻ em dưới 11
tháng tuổi và 4,4 triệu trẻ em từ 1-4 tuổi chết, trong đó 57% là do suy dinh
dưỡng. Suy dinh dưỡng còn làm cho trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm trùng, chậm
phát triển thể chất và tinh thần.
Điều trị suy dinh dưỡng rất phức tạp và tốn kém trong khi đó phát hiện
sớm suy dinh dưỡng và dự phòng có thể làm được nhờ biện pháp chăm sóc sức
khoẻ ban đầu.
Tại Việt Nam tỷ lệ suy dinh dưỡng đã giảm nhiều. Nếu tính từ năm 1985
(51,5%) đến năm 1995 (44,9%), mỗi năm giảm trung bình 0,66%. Kể từ năm
1995 khi nước ta bắt đầu kế hoạch quốc gia thì suy dinh dưỡng giảm xuống chỉ
còn 36,7% (1999). Trung bình mỗi năm giảm 2%, là tốc độ được quốc tế công
nhận là giảm nhanh. Năm 2000 theo số liệu thống kê, tỷ lệ trên chỉ còn 33,1%.
Suy dinh dưỡng ở nước ta hiện nay chủ yếu là thể nhẹ và vừa, thể nặng đã giảm
hẳn (0,8%). Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nước ta vẫn còn ở mức cao so với
quy định của Tổ chức Y tế Thế giới.
Vấn đề thiếu máu dinh dưỡng là một vấn đề bức xúc hiện nay. Về sức
khoẻ cộng đồng, thiếu máu ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần, thể chất, khả
năng lao động và có thể đe dọa đến tính mạng.
Tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng trên thế giới theo De Maryer và cộng sự được
chia theo vùng và các nhóm tuổi sau: Trẻ 0 - 4 tuổi có tỷ lệ thiếu máu dinh
4
dưỡng ở Châu Phi là 56%, Châu Mỹ La Tinh là 26%, Nam Á là 56%, đông Á là
20%, đặc biệt các nước đang phát triển là 51%.
Ở Việt Nam theo điều tra dịch tễ học năm 1995 của Viện dinh dưỡng cho
thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai 52,7%, phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ là 40,2%,
trẻ em trước tuổi đi học là 61,1% [20].
Vẫn còn sự khác biệt về phân bố tỷ lệ suy dinh dưỡng và thiếu máu giữa
các vùng như giữa thành phố và nông thôn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân ở
thành phố Hồ Chí Minh là 18,1%, thành phố Hà Nội 21%, đồng bằng Sông Cửu

vùng xa, vùng nông thôn. Đứng trước những thách thức đó, người làm chương
trình và cán bộ y tế phải trau dồi kiến thức và nhiệt huyết để đưa tỷ lệ SDD giảm
nhanh hơn nữa.
1.2. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG
- THIẾU MÁU
Điểm mấu chốt bao trùm trong chiến lược phòng chống SDD trẻ em là:
tiếp cận dự phòng, cải thiện dinh dưỡng theo chu kỳ vòng đời thể hiện ở các
điểm sau [17].
6
Cải thiện dinh dưỡng vị thành niên và dinh dưỡng của bà mẹ trước và
trong giai đoạn mang thai là nội dung dinh dưỡng dự phòng thiết yếu nhằm giảm
tỷ lệ còi cọc. Đây là một tiếp cận rất quan trọng. Người phụ nữ trước khi có thai
cần được quan tâm nhiều hơn tới dinh dưỡng bao gồm ăn uống, phòng chống
các bệnh nhiễm khuẩn, giun sán, và phải được học về dinh dưỡng.
- Nâng cao chất lượng và độ bao phủ hoạt động chăm sóc dinh dưỡng trẻ
em để giảm thấp còi trong những năm đầu. Chăm sóc sức khoẻ trẻ từ trong bào
thai đến 5 tuổi là một vấn đề quan trọng đối với y học dự phòng, một vấn đề đặc
biệt đối với chiến lược bảo vệ sức khoẻ con người [26].
- Tập trung chăm sóc trẻ ngay từ khi mới sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu và duy trì cho tới khi trẻ được 18 - 24 tháng. Người mẹ phải biết nuôi
con đúng phương pháp khoa học mới, phải cân hàng tháng cho trẻ, ghi vào biểu
đồ tăng trưởng để phát hiện sớm hơn SDD.
- Tăng cường đầu tư cho các hoạt động cải thiện thực phẩm hộ gia đình,
giảm nhẹ đói nghèo. Thực phẩm cao năng lượng là một nhu cầu cấp bách cho
cộng đồng đặc biệt là trẻ SDD, trẻ đang phát triển và tăng trưởng.
- Phối hợp liên ngành chặt chẽ, tiếp tục huy động sự tham gia của cộng
đồng và sự cam kết của chính phủ trong phòng chống SDD trẻ em.
Chiến lược đề phòng SDD theo phương châm của Y tế thế giới đề ra đó là
7 ưu tiên cho nhi khoa viết tắt là GOBI + FFF để phấn đấu đến năm 2000 sức
khoẻ trẻ em được phát triển tốt hơn.

ở trẻ dưới 5 tuổi.
Theo điều tra 1991 trẻ em dưới 5 tuổi vào khám và điều trị tại Bệnh viện
Trung ương Huế cho thấy tỷ lệ SDD cân nặng/tuổi là 20,9%. Trong đó chủ yếu
là SDD độ I (16,6%): Tỷ lệ SDD ở trẻ trai (22,9%), cao hơn trẻ gái (18%).
Nhóm tuổi từ 36-48 tháng chiếm 28,2%, tỷ lệ SDD chiều cao/tuổi là 25,8% và
cân nặng/chiều cao là 10,3%.
8
Về suy dinh dưỡng theo vùng sinh thái thì tỷ lệ SDD thể nhẹ cân cao nhất
ở vùng Tây Nguyên 45,4% (± 1,0), tiếp theo là Bắc Trung Bộ 40,3% (±0,8%),
miền núi Tây bắc 41,6% (± 0,8), Đông Bắc 37% (± 0,5), duyên hải Trung Bộ
35,6% (± 0,8), đồng bằng Sông Hồng 30,3% (± 0,5), đồng bằng sông Mêkông
30% (± 0,5) và thấp nhất ở vùng đông Nam Bộ 27,6% (± 0,7) [22], [36].
Theo Thư viện dinh dưỡng quốc gia, diễn biến tình hình SDD ở nước ta từ
1992-2000 như sau:
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
% 53 47,9 45,6 44,9 43,9 40,6 39,8 36,7 33,8
Qua nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Sóc
Sơn, Hà Nội năm 2001 và 2006 cho thấy tỷ lệ SDD ở Hà Nội giảm tương đối
thấp nhưng có sự chênh lệch khá xa giữa nội thành và ngoại thành. Một số
phường ở nội thành, tỷ lệ SDD đã giảm xuống 10% nhưng ở một số xã huyện
nghèo tỷ lệ SDD còn cao.
Tỷ lệ SDD của trẻ em năm 2004 vẫn còn cao ở mức 26,6% đặc biệt là khu
vực Tây nguyên và Tây Bắc.
1.4.3. Định nghĩa suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý do "Nhu cầu dinh dưỡng bình
thường của cơ thể không được đáp ứng" [24].
Ngày nay người ta cho rằng đây là một tình trạng bệnh lý do thiếu nhiều
chất dinh dưỡng hơn là thiếu đơn thuần protein và năng lượng [19].
Theo chiến lược xử trí lồng ghép bệnh trẻ em, nếu trẻ có dấu gầy mòn
nặng rõ rệt hoặc mờ giác mạc hoặc phù cả hai bàn chân thì phân loại trẻ SDD

mạc, loét giác mạc, hiện nay thể nặng hiếm gặp [9], [35].
1.4.6. Hậu quả của suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng nặng và kéo dài ở thời kỳ bào thai và dưới 2 tháng tuổi
ảnh hưởng đến sự phát triển của trí tuệ.
10
Suy dinh dưỡng nặng và kéo dài trước 3 tuổi sẽ làm ảnh hưởng đến cân
nặng, chiều cao, các chức năng và các bộ phận của cơ thể.
Suy dinh dưỡng và nhiễm trùng có liên quan chặt chẽ với nhau, đây là
vòng xoắn bệnh lý. Suy dinh dưỡng làm tăng tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn, mắc
bệnh nhiễm khuẩn sẽ tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng và tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em.
Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ em ở các
nước đang phát triển [30], [33].
1.4.7. Phòng bệnh suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng là vấn đề dinh dưỡng cộng đồng quan tâm nhất trên thế
giới hiện nay. Trẻ em là đối tượng chính của SDD, nếu không can thiệp kịp thời
thì quảng thời gian phát triển nhanh nhất và quan trọng nhất (thời kỳ bào thai và
những năm đầu của đời sống) sẽ trôi qua và hậu quả SDD không hồi phục.
- Công tác phòng chống SDD là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi
người và toàn xã hội.
- Đối với trẻ phải theo dõi cân nặng hàng tháng ghi vào biểu đồ tăng
trưởng để phát hiện sớm SDD. Tìm nguyên nhân và các biện pháp can thiệp kịp
thời có hiệu quả.
Hai thời điểm làm cho trẻ dễ bị SDD nhất là lúc bắt đầu cho ăn bổ sung và
lúc cai sữa mẹ các biện pháp phòng chống SDD tốt nhất hiện nay là: [2], [5]
- Nuôi con bằng sữa mẹ đúng là biện pháp quan trọng để phòng chống
SDD ở trẻ em.
- Cho ăn bổ sung hợp lý, ăn từ ít đến nhiều, từ lỏng đến đặc và thực hiện
tô màu bát bột cho trẻ. Thức ăn bổ sung cần có đậm độ năng lượng và độ đặc
thích hợp đồng thời phải cân đối các chất dinh dưỡng.
- Phải tiêm phòng đầy đủ các bệnh truyền nhiễm theo lịch tiêm chủng.

- Cho trẻ ăn thêm các loại quả sẵn có tại địa phương như chuối, hồng
xiêm, xoài, đu đủ, táo sau khi ăn và xen giữa các bữa ăn.
- Không cho trẻ bú chai.
12
1.5.3. Trẻ từ 12 tháng đến 2 tuổi
- Tiếp tục cho trẻ bú mẹ bất cứ lúc nào trẻ muốn
- Cho trẻ ăn phối hợp các loại thức ăn sau: cháo đặc, hoặc cơm nát hoặc
bún, phở, mì với:
+ Thịt (gà, lợn hoặc bò) ninh nhừ hoặc băm hay thái nhỏ hoặc cá, tôm,
hoặc trứng và
+ Ranh xanh băm nhỏ như rau ngót, rau cải, rau muống, xu hào, bắp cải, và
+ 1 thìa mỡ hoặc dầu
- Cho trẻ ăn các thức ăn này 5 bữa một ngày, ít nhất 1-1,5 bát một bữa.
- Cho trẻ ăn thêm các loại quả sẵn có tại địa phương như chuối, hồng
xiêm, cam, xoài, đu đủ.
- Không cho trẻ bú chai.
1.5.4. Trẻ từ 2 tuổi và lớn hơn
- Cho trẻ ăn ba bữa cùng gia đình, ưu tiên cho trẻ thức ăn có nhiều chất
dinh dưỡng như thịt, cá, tôm, trứng, các loại rau xanh.
- Xen giữa các bữa chính nên cho trẻ ăn thêm ít nhất 2 bữa phụ bằng các
loại bánh, sữa
- Cho trẻ ăn thêm các loại quả sẵn có ở địa phương như đu đủ, xoài, hồng
xiêm, chuối, cam
1.6. THIẾU MÁU
1.6.1. Một số nghiên cứu về thiếu máu của trẻ em
Theo UNICEF năm 1998 gần hai tỷ người trên thế giới bị thiếu máu thiếu
sắt trong đó có khoảng 40 - 50% trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu máu ở các nước
đang phát triển.
Tại Việt Nam theo điều tra dịch tễ học năm 1995 của Viện dinh dưỡng
cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai là 57,7%, trẻ trước tuổi đi học là

Tỷ lệ thiếu máu ở mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng là
36,7%. Cao nhất ở Bắc cạn 73,4% thấp nhất ở An Giang 17,0%, Bắc Ninh và
Đắc Lắc 25,6%, Hà Nội 32,5%, Huế 38,6%. Tỷ lệ thiếu máu nhiều nhất ở nhóm
6 - 12 tháng tuổi (56,9%), có xu hướng giảm dần khi tuổi của trẻ tăng lên: 45%
ở trẻ 12 - 24 tháng, 38% ở trẻ 24-36 tháng và 29% ở trẻ 36 - 48 tháng, còn
19,7% là ở trẻ 48 - 59 tháng [27], [28].
14
1.6.2. Định nghĩa thiếu máu
Thiếu máu là tình trạng giảm lượng Hemoglobin hay khối lượng hồng cầu
trong một đơn vị thể tích máu, Hemoglobin hay khối hồng cầu thấp hơn giới hạn
bình thường của người cùng lứa tuổi [30].
Thiếu máu là tình trạng giảm lượng huyết sắc tố trong một đơn vị thể tích máu.
Theo quy định của Tổ chức y tế thế giới 2001 có thiếu máu khi: [30].
Tuổi Hemoglobin (g/dl)
Sơ sinh
2 tháng - 5 tháng
6 tháng - 6 tuổi
> 6 tuổi
< 13,5
< 9,5
< 11
< 11,5
Theo Chiến lược xử trí lồng ghép bệnh trẻ em, phân loại trẻ thiếu máu khi
có dấu hiệu lòng bàn tay nhợt hoặc rất nhợt [15].
1.6.3. Nguyên nhân thiếu máu
1.6.3.1. Thiếu máu do giảm sinh
Do thiếu yếu tố tạo máu, thiếu sắt, thiếu axit folic, vitamin B
12
, thiếu
protein và do sử dụng sắt kém.

1.6.6. Dự phòng thiếu máu
Trước hết cần tích cực chống ô nhiễm môi trường bằng mọi biện pháp
triển khai kế hoạch chăm sóc sức khoẻ ban đầu, ở cơ sở.
Quan tâm hơn nữa đến kế hoạch hoá gia đình và phát triển dân số, hạn chế
dị tật bẩm sinh, bổ sung viên sắt khi mang thai, tẩy giun định kỳ, tiêm chủng đầy
đủ, hạn chế các bệnh nhiễm khuẩn nâng cao chế độ dinh dưỡng toàn dân [35].
16
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi và các bà mẹ
của những trẻ đó ở xã Hương Hồ - Thừa Thiên Huế.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi ở tất cả các hộ gia đình của thôn.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp trẻ em 2 tháng đến 5 tuổi bị các bệnh bẩm sinh (thiểu
năng não, sứt môi hở hàm ếch hay các tật bẩm sinh khác).
- Bà mẹ không bình thường về mặt tinh thần hoặc không hợp tác.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu theo phương pháp tiến cứu, cắt ngang, có mô tả, phân tích.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 03 năm 2007 đến tháng 05 năm 2008
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu
Xã Hương Hồ - Thừa Thiên Huế
2.3. THU THẬP SỐ LIỆU
2.3.1. Các thông tin thu thập
- Phần hành chính: Họ và tên, tuổi, giới, họ tên mẹ, nghề nghiệp mẹ, trình
độ văn hoá mẹ.
- Số con trong gia đình

2.3.2.2. Thu thập thông tin
Thiết kế bộ câu hỏi đảm bảo nguyên tắc sau
- Bộ câu hỏi phải được thiết kế gọn gàng, rõ ràng dễ thực hiện.
18
- Dựa vào bộ câu hỏi phỏng vấn bà mẹ để thu thập các thông tin liên quan
đến nhẹ cân và thiếu máu kết hợp với khám lâm sàng và cân trẻ.
2.3.2.3. Kỹ thuật cân
Dùng cân xách tay của UNICEF có độ nhạy 100gram khi cân đặt cân ở vị
trí bằng phẳng chỉnh cân về số 0 trước khi cân, hàng ngày kiểm tra độ nhạy, độ
chính xác của cân, kết quả được ghi với một số lẻ.
Cân trực tiếp đối với trẻ mặc quần áo mỏng, cởi bỏ hết giày dép, mũ.
Cân gián tiếp chuẩn bị như cân trực tiếp cho bà mẹ bồng trẻ lên cân ghi
kết quả lần 1, sau đó cân lại bà mẹ không có trẻ ghi lần 2. Lấy kết quả lần một
trừ kết quả lần 2 ta sẽ có kết quả của trẻ.
2.3.2.4. Kỹ thuật khám da lòng bàn tay
- Đặt lòng bàn tay trẻ hơn khum, khám cả hai lòng bàn tay của trẻ so sánh
lòng bàn tay của trẻ với lòng bàn tay của người khám để đánh giá theo 3 mức
độ.
+ Lòng bàn tay hồng: trẻ không thiếu máu
+ Lòng bàn tay nhợt: trẻ có thiếu máu
+ Lòng bàn tay rất nhợt: trẻ thiếu máu nặng
2.3.2.5. Kỹ thuật tìm dấu hiệu mờ giác mạc
Bình thường giác mạc trẻ sáng bóng và trong suốt. Khi giác mạc bị mờ
nhìn vào giác mạc mức độ trong suốt giảm, giống như một vùng sương mờ phủ
lên giác mạc.
- Có thể để trẻ nằm mở mắt tự nhiên hoặc kéo nhẹ mi dưới để tìm dấu
hiệu này.
2.3.2.6. Kỷ thuật tìm dấu hiệu gầy mòn
Trẻ có dấu hiệu này là trẻ rất gầy, nhìn chỉ có da bọc xương để tìm dấu
hiệu này cho trẻ cởi hết quần áo quan sát dấu hiệu gầy mòn ở cơ vai, cánh tay,

+ Dấu hiệu lòng bàn tay rất nhợt phân loại “thiếu máu nặng”.
+ Dấu hiệu lòng bàn tay nhợt phân loại “thiếu máu”.
20
+ Dấu hiệu lòng bàn tay hồng phân loại “không thiếu máu” [3]
2.5. XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Xử lý và phân tích số liệu theo phương pháp thống kê y học thông
thường, sử dụng phần mềm Excel và MedCalc.
- Các thuật toán thống kê được sử dụng gồm:
+ Trị trung bình, độ lệch chuẩn, trị cực đại, trị cực tiểu.
+ So sánh hai tỷ lệ bằng kiểm định Ho sử dụng thống kê χ
2
.
21
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON TRONG NHÓM
TRẺ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
3.1.1. Tuổi của các bà mẹ
Bảng 3.1. Tuổi của các bà mẹ
Độ tuổi (năm) n Tỷ lệ %
20-30 109 53,43
31-40 82 40,20
41-50 13 6,37
Tổng 204 100
Tuổi trung bình 31,60 ± 5,52
Biểu đồ 3.1. Tuổi của các bà mẹ
Trong 204 trẻ được nghiên cứu, số trẻ có bà mẹ ở độ tuổi 20-30 chiếm tỷ
lệ cao nhất (53,43%), tiếp đến độ tuổi 31-40 tuổi chiếm tỷ lệ 40,20%, thấp nhất
ở độ tuổi 41-50 tuổi (6,37%).
Tuổi trung bình các bà mẹ : 31,60 ± 5,52

1 156 76,47
2 45 22,06
≥ 3 3 1,47
Tổng 204 100,00
23
Trong 204 trẻ được nghiên cứu, số trẻ sống trong gia đình có 1 con chiếm tỷ
lệ cao nhất với 156 trường hợp (76,47%), tiếp đến số trẻ sống trong gia đình có 2
con chiếm 22,06% và thấp nhất là gia đình đông con (≥ 3 con) chiếm tỷ lệ 1,47%.
3.1.5. Tình hình kinh tế của các gia đình
Bảng 3.5. Tình hình kinh tế của các gia đình
Điều kiện kinh tế n Tỷ lệ %
Nghèo 20 9,80
Trung binh 139 68,14
Khá 45 22,06
Tổng 204 100,00
Trong 204 trẻ được nghiên cứu, số trẻ sống trong gia đình có điều kiện
kinh tế trung bình chiếm đa số (68,14%), số trẻ sống trong gia đình có điều kiện
kinh tế khá chiếm thấp nhất (22,06%).
3.1.6. Tiếp thu kiến thức nuôi dưỡng trẻ từ các phương tiện truyền thông
Bảng 3.6. Tiếp thu kiến thức nuôi dưỡng trẻ từ các phương tiện truyền thông
Phương tiện truyền thông n Tỷ lệ %
Radio 4 1,85
Tivi 203 93,98
Sách báo 9 4,17
Tổng 216 100,00
Trong 204 trẻ được nghiên cứu, số trẻ có bà mẹ tiếp thu kiến thức nuôi
dạy trẻ từ tivi chiếm tỷ lệ cao nhất 93,98%, tiếp đến sách báo chiếm 4,17% và
thấp nhất là từ radio chỉ chiếm 1,85%.
3.1.7. Đánh giá tình hình trẻ được nuôi dưỡng đúng theo khuyến cáo IMCI
Bảng 3.7. Tình hình nuôi dưỡng trẻ của các gia đình


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status