SỰ HÌNH THÀNH HỆ TIẾT NIỆU - SINH DỤC (tt) doc - Pdf 19

SỰ HÌNH THÀNH HỆ TIẾT NIỆU - SINH DỤC
(tt) - Toàn bộ các tế bào thuộc các dòng tế bào sinh dục (dòng tinh và dòng
noãn) đều phát sinh từ những tế bào sinh dục nguyên thủy. Ở phôi người khoảng
tuần thứ 4, các tế bào sinh dục nguyên thủy ở thành túi noãn hoàng, nơi gần niệu
nang di chuyển dọc theo mạc treo lưng của ruột sau đến gờ (mầm) tuyến sinh dục
nằm ở trung bì trung gian, giữa mạc treo ruột và trung thận (H. 10). Khoảng tuần
thứ 6, các tế bào mầm nguyên thủy xâm nhập vào gờ tuyến sinh dục và tác động
cảm ứng vào các tế bào trung bì trung gian làm tế bào này tăng sinh tạo ra những
dây tế bào biểu mô bao xung quanh các tế bào sinh dục nguyên thủy và tạo thành
dây sinh dục nguyên phát (nguyên thủy). Các dây sinh dục nguyên phát được ngăn
cách nhau bởi những tế bào trung mô cũng được biệt hóa từ tế bào trung bì trung
gian. Những dây tế bào sinh dục nguyên thủy cùng với gờ tuyến sinh dục tạo
thành tuyến sinh dục trung tính, chưa có sự biệt hóa của tuyến sinh dục. Những
dây sinh dục nguyên phát dài ra và tiến sâu vào vùng trung tâm của tuyến sinh dục
trung tính , do đó chúng còn được gọi là dây sinh dục nguyên tủy.
1.2. Sự hình thành đường sinh dục trung tính
Vào khoảng tuần thứ 6, phôi thuộc cả 2 giới đều có 2 cặp ống sinh dục: 2
ống trung thận dọc và 2 ống cận trung thận (còn gọi là ống Mullerian) mới được
tạo thành nằm song song với ống trung thận dọc. Ống cận trung thận được hình thành bởi sự lõm vào trung mô của biểu mô
khoang cơ thể theo chiều dọc tạo thành ống. Ở phía đầu, ống này mở vào khoang
cơ thể. Ơí phía đuôi, đầu tiên ống này chạy song song bên cạnh và ở phía ngoài
ống trung thận dọc, sau đó bắt chéo ống trung thận dọc ở mặt trước và nằm ở phía
trong ống nàỳ. Ðoạn cuối cùng của 2 ống cận trung thận tiến về phía đường dọc
giữa và ở đó chúng sát nhập với nhau tạo thành ống niệu- sinh dục sau này. Ống
niệu- sinh dục tiếp tục phát triển theo hướng đuôi đến xoang niệu- sinh dục và mở

- Từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 8, các dây sinh dục nguyên thủy tăng sinh liên
tục, dài ra và cong queo, xâm nhập sâu hơn vào trung tâm tuyến sinh dục, rồi tách
khỏi biểu mô khoang cơ thể, những dây đó được gọi là dây tinh hoàn. Tế bào trung
mô ngay dưới biểu mô khoang cơ thể tạo thành một màng liên kết gọi là màng
trắng, ngăn cách biểu mô này với các dây tinh hoàn và màng trắng bọc gần như
toàn bộ tuyến sinh dục. Từ màng trắng phát sinh các vách xơ tiến vào tinh hoàn
chia ra thành các tiểu thùy.
- Mỗi dây tinh hoàn phân thành 3- 4 dây nhỏ hơn nằm trong một thùy. Mỗi
dây nhỏ sẽ tạo thành một ống sinh tinh, các ống này vẫn đặc, chưa có lòng ống.
Các tế bào biểu mô (một thành phần tạo dây sinh dục nguyên thủy) biệt hóa thành
tế bào Sertoli. Ống sinh tinh duy trì như vậy cho tới tuổi dậy thì, lúc đó mới bắt
đầu có lòng ống và xuất hiện quá trình tạo tinh trùng.
- Các dây tế bào trung mô nằm giữa các dây sinh dục nguyên thủy sẽ biệt hóa
thành những tế bào kẽ và phát triển trong khoảng tháng thứ 3 đến tháng thứ 5, sau
đó số lượng giảm dần.
2.2. Sự phát triển của đường sinh dục nam
- Khi trung thận thoái hóa, toàn bộ tiểu cầu thận và một số ống trung thận
ngang ở vùng đầu đến tuyến sinh dục thoái hóa và biến đi hoàn toàn, chỉ còn sót
lại một số ống nằm bên cạnh tuyến sinh dục. Những ống này ngắn lại và được nối
với các dây sinh dục nguyên thủy bởi những dây nối nhỏ gọi là dây nối niệu- sinh
dục. Dây nối niệu sinh dục phát triển thành những đường dẫn tinh nằm trong tinh
hoàn tạo ra ống thẳng và lưới tinh hoàn. Ống trung thận dọc tạo ra phần lớn các
đường sinh dục nam: + Ðoạn ống trung thận dọc nằm ở phía trên tinh hoàn cùng với các ống
trung thận ngang thông với nó tạo ra túi thừa tinh hoàn, một di tích của phôi thai.
+ Ðoạn ống trung thận dọc nằm đối diện với tinh hoàn tạo ra ống mào tinh.
+ Ðoạn ống trung thận dọc còn lại ở phía dưới tinh hoàn tạo ra ống dẫn
tinh. Ðoạn cuối của ống dẫn tinh biến đổi tạo ra ống phóng tinh. Túi tinh được tạo

Buồng trứng bắt đầu biệt hóa vào cuối tuần thứ 8, muộn hơn sự biệt hóa
của tinh hoàn. Trong tuyến sinh dục phôi có giới tính di truyền là nữ, những dây
sinh dục nguyên thủy thoái hóa. Sự thoái hóa tiến từ vùng ngoại vi (vùng vỏ) vào
vùng trung tâm (vùng tủy) của tuyến sinh dục. Ở vùng vỏ, một đợt tăng sinh lần
thứ 2 của các tế bào có nguồn gốc là trung bì trung gian tạo ra các dây tế bào biểu
mô để chứa các tế bào sinh dục nguyên thủy đã di cư đến đó. Trong các dây này,
tế bào sinh dục nguyên thủy biệt hóa thành noãn nguyên bào, tế bào đầu dòng của
dòng noãn. Những dây tế bào biểu mô chứa noãn nguyên bào tạo thành dây sinh
dục thứ phát. Dây này tách khỏi biểu mô khoang cơ thể và đứt thành từng đoạn.
Mỗi đoạn tạo ra một đám tế bào biểu mô bao xung quanh noãn nguyên bào. Cũng
giống tinh hoàn, màng trắng được tạo ra phía dưới biểu mô khoang cơ thể, biểu
mô khoang cơ thể không biến đi như ở quá trình phát triển tinh hoàn mà tồn tại
suốt đời và trở thành biểu mô mầm.
3.2. Phát triển của đường sinh dục
- Dây nối niệu- sinh dục: ở phôi có giới tính nữ, dây nối niệu- sinh dục
thoái hóa đồng thời với dây sinh dục nguyên thủy.
- Ống trung thận dọc và trung thận ở phôi nữ thoái hóa biến thành những di
tích phôi thai.
- Ống cận trung thận: ở phôi thai có giới tính di truyền là nữ, ống cận trung
thận phát triển , tao ra phần lớn các đường sinh dục nữ.
+ Ðoạn trên của ống trung thận ,mở vào khoang cơ thể (khoang bụng),
đoạn này phát triển thành vòi trứng. + Ðoạn dưới của 2 ống cận trung thận nằm ở 2 bên sát nhập với nhau ở
đường giữa tạo thành một ống gọi là ống tử cung- âm đạo. Ở 2 bên ống này tiếp
với vòi trứng bằng một đoạn ngắn của sừng tử cung. Ðoạn trên ống tử cung- âm

các cơ quan này và làm cho chúng thay đổi vị trí tại chỗ. Dây chằng hoành sẽ tạo
ra dây chằng buồng trứng, dây chằng bẹn sẽ tạo ra dây chằng tử cung- buồng trứng
và dây chằng tròn tử cung.
4. Phát triển bất thường
4.1. Ở nam
- Dị tật của tinh hoàn:
+ Tinh hoàn lạc chỗ: dị tật này do tinh hoàn di cư lạc chỗ. Tinh hoàn có thể
nằm trong ổ bụng (hay gặp), trong ống bẹn, ở đùi, mặt lưng dương vật , thường
kèm theo thoát vị bẹn bẩm sinh.
+ Thoát vị bẹn bẩm sinh: do ống bẹn không khép kín nên các quai ruột
xuống ống bẹn.
+ Thiếu tinh hoàn: có thể thiếu 1 hoặc 2, do mầm tuyến sinh dục không
phát triển.
+ Thừa tinh hoàn: do sự phân đôi của mầm tuyến sinh dục.
+ Dính tinh hoàn: do 2 mầm tuyến sinh dục sát nhập với nhau.
- Dị tật của đường sinh dục trong và cơ quan sinh dục ngoài:
+ Ống dẫn tinh mở vào niệu đạo: tật này do đoạn cuối của ống trung thận
dọc không sát nhập với thành sau bàng quang.
+ Thiếu túi tinh hoặc túi tinh nằm ở vị trí bất thường: do mầm túi tinh
không phát sinh hoặc phát sinh lạc chỗ.
+ Thiếu ống phóng tinh: do sát nhập ống phóng tinh.
+ Lỗ tiểu dưới: thường gặp, lỗ tiểu mở ở mặt dưới quy đầu hoặc mặt dưới
của thân dương vật hoặc mặt dưới bìu. Tật này do các nếp sinh dục và các rãnh
sinh dục khép bất thường.
+ Lỗ tiểu trên: hiếm gặp, lỗ tiểu mở ở mặt trên dương vật, do màng niệu
đạo- sinh dục không nằm lùi về phía đáy chậu và củ sinh dục dính vào khoảng
giữa màng niệu- sinh dục và màng hậu môn.
+ Các dị tật khác: hẹp bao quy đầu, tịt niệu đạo.
4.2. Ở nữ
- Dị tật của buồng trứng: buồng trứng lạc chỗ, thiếu buồng trứng, thừa


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status