KỸ THUẬT CẮT BỜ ĐỒNG TỬ TRONG PHẪU THUẬT NHŨ TƯƠNG HOÁ THỂ THUỶ TINH CÓ ĐỒNG TỬ KHÔNG DÃN - Pdf 20

KỸ THUẬT CẮT BỜ ĐỒNG TỬ TRONG PHẪU THUẬT NHŨ TƯƠNG
HOÁ THỂ THUỶ TINH CÓ ĐỒNG TỬ KHÔNG DÃN TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kỹ thuật cắt bờ đồng tử 180
o
không sâu trong phẫu thuật
nhũ tương hoá thể thuỷ tinh có đồng tử không giãn.
Phương pháp: Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng không đối chứng, thực hiện
tại Bệnh viện Mắt TP.HCM từ tháng 5 - 10/2007. Chọn 30 mắt có chỉ định
phẫu thuật nhũ tương hoá thể thuỷ tinh nhưng có đồng tử không dãn sau khi
nhỏ thuốc dãn đồng tử trước mổ 30 phút. Thực hiện kỹ thuật cắt bờ đồng tử
180
o
, 6 - 8 vết theo hình nan hoa, sâu 0,2mm. thực hiện nhũ tương hoá thể thuỷ
tinh. Ghi nhận các kết quả như đường kính đồng tử trong và sau mổ, phản xạ
ánh sáng trực tiếp, biến dạng đồng tử nhìn thấy bằng mắt thường, thị lực, số
lượng tế bào nội mô mất sau mổ,
Kết quả: Đường kính đồng tử trong phẫu thuật sau cắt bờ đồng tử đạt 5,5 ±
0,5mm. Sau mổ 1 tuần, chỉ có 6 trường hợp (20%) có đường kính đồng tử
>3mm nhưng <5mm và có biến dạng đồng tử thấy được bằng mắt thường. Sau
1 tháng không ghi nhận trường hợp nào tương tự. Phản xạ ánh sáng phục hồi
100% sau mổ 1 tuần. Thị lực (LogMar) phục hồi tốt, BCVA = 0,22 ± 0,11 lúc 1
tuần, 0,15 ± 0,15 lúc 1 tháng, 0,09 ± 0,13 lúc 3 tháng). Số lượng tế bào nội mô
sau mổ 1 tuần giảm 12,2% so với trước mổ.
Kết luận: Kỹ thuật cắt bờ đồng tử 180
o
, 6 - 8 vết theo hình nan hoa, sâu 0,2mm
cho thấy an toàn và hiệu quả trong những trường hợp đồng tử không dãn khi
phẫu thuật nhũ tương hoá thể thuỷ tinh.

giới thiệu để giải quyết vấn đề này như sử dụng dụng cụ móc bờ đồng tử, cắt
bờ đồng tử sâu, Trong nghiên cứu này, chúng tôi nghiên cứu kỹ thuật cắt bờ
đồng tử nông trong những trường hợp đồng tử không dãn khi phẫu thuật nhũ
tương hoá thể thuỷ tinh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên thực nghiệm lâm sàng không đối chứng, loạt ca, được tiến hành tại
Bệnh viện Mắt TP.HCM từ tháng 2 - 6/2008.
30 bệnh nhân được chọn liên tiếp trong lúc khám trước mổ.
Khám trước mổ: bệnh nhân có đường kính đồng tử ≤ 3mm sau khi nhỏ thuốc
dãn đồng tử (tropicamide 1% và phenylephrine 5%) khoảng 30 phút. Về mặt
đại thể, tất cả những bệnh nhân này đều có mống mắt không bạc màu, không
thoái hoá, không có tân mạch, bờ đồng tử tròn đều (trước khi nhỏ thuốc dãn
đồng tử), không có những tổn thương khác như rách mống, cắt bờ đồng tử, ,
không có biểu hiện liệt thần kinh III (không tiền căn chấn thương đầu), bệnh
nhân không bị glôcôm mạn. Mống mắt có thể có màng xơ dính ở bờ đồng tử.
Khám tiền phẫu với sinh hiển vi, khám đáy mắt sau khi nhỏ tropicamide 1% và
phenylephrine 5%, đo nhãn áp, đếm tế bào nội mô trước mổ. Loại trừ các
trường hợp đục thể thuỷ tinh do chấn thương, do bệnh lý, các trường hợp có
đục giác mạc, bệnh lý đáy mắt làm ảnh hưởng đến thị lực sau mổ.
Quy trình phẫu thuật: Nhỏ thuốc dãn đồng tử trước mổ 30 phút. Tiêm tê hậu
cầu với Xylocain, tạo đường hầm giác mạc trong dài 3,2mm, bơm Viscoat.
Dung kéo Vannas cắt bờ đồng tử khoảng 0,2mm theo hình nan hoa, 180
o
đối
diện đường hầm giác mạc, từ 6-8 vết. Xé bao tròn liên tục, thuỷ tách nhân, chẻ
nhân và nhũ tương hoá nhân, đặt kính nội nhãn trong bao. Hậu phẫu không nhỏ
Pilocarpine, nhỏ collyre Predfort trong 3 tuần.
Đánh giá kết quả trong và sau mổ tại thời điểm 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng, bao
gồm tình trạng đồng tử, thị lực chỉnh kính (BCVA), số lượng tế bào nội mô.
Ghi nhận các biến chứng trong và sau mổ nếu có.

Bi
ến dạng
đ
ồng tử
nhìn b
ằng
mắt
thường

N
%
N
%
N
%
1 tuần

24 80 30 100 6 20
1
tháng

30 100 30 100 0 0
3
tháng

30 100 30 100 0 0
Bảng 3. Kết quả thị lực (BCVA) sau mổ
1 tuần 0,22 ± 0,11
1 tháng 0,15 ± 0,15
3 tháng 0,09 ± 0,13

tử >3mm nhưng <5mm, và các trường hợp này có thể thấy đồng tử biến dạng
bằng mắt thường (hơi có hình oval về phía cắt bờ đồng tử). Tuy nhiên, sau 1
tháng, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào có đường kính đồng tử > 3mm
và có biến dạng đồng tử thấy được bằng mắt thường. Điều này có thể do phản
ứng làm liệt cơ vòng tạm thời do thao tác cắt bờ đồng tử.
Ngay sau mổ, chúng tôi không nhỏ thuốc co đồng tử nhằm tránh nguy cơ
tăng nhãn áp do quá trình cắt bờ đồng tử có thể gây xuất tiết dịch viêm, làm
bít đồng tử và gây tăng nhãn áp. Trên thực tế sau mổ, chúng tôi không ghi
nhận tình trạng tăng nhãn áp hay viêm màng bồ đào xảy ra.
Các kết quả khác như thị lực sau mổ ghi nhận tại các thời điểm 1 tuần, 1 tháng
và 3 tháng rất tốt, số lượng tế bào nội mô mất sau mổ 1 tuần khoảng 12% và
không ghi nhận được các biến chứng trong và sau mổ cho thấy phẫu thuật đã
được thực hiện an toàn và hiệu quả.
Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước giới thiệu các kỹ thuật điều trị trong
trường hợp đồng tử không dãn trong phẫu thuật nhũ tương hoá thể thuỷ tinh
như dùng dụng cụ móc mống, cắt bờ đồng tử sâu, cắt bờ đồng tử 360
o
. Tuy
nhiên, mỗi kỹ thuật đều có nhưng ưu và nhươc điểm của nó. Với kỹ thuật móc
mống, đồng tử được điều chỉnh dãn rất tốt, tuy nhiên kỹ thuật này cần có dụng
cụ móc mống khá đắt tiền, thao tác khá lâu và cần được huấn luyện kỹ thuật
thật tốt. Với kỹ thuật cắt bờ đồng tử sân ở hai vị trí ± 90
o
so với vết mổ hoặc ba
vị trí ± 90
o
và 180
o
so với vết mổ thì đồng tử dãn lớn nhưng không đều, sau mổ
gây biến dạng đồng tử gây mất thẩm mỹ, mất phản xạ ánh sáng trực tiếp. Với


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status