Ngân hàng nông nghiệp và niềm tin tín dụng cho các hộ kinh doanh địa phương - Pdf 20


Lời nói đầu
Qua hơn 50 năm xây dựng trưởng thành và phát triển, ngành Ngân hàng luôn luôn
là một ngành quản lý tổng hợp, với chức năng hoạt động là trung tâm tiền tệ, tín
dụng và thanh toán, ngành Ngân hàng đã thực hiện tốt chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước, thực sự trở thành công cụ thúc đẩy nền kinh tế liên tục phát
triển, góp phần đẩy lùi lạm phát, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo và thực
hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động của kế toán Ngân hàng mang tính chất tổng hợp, vì số liệu của
kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp các mặt hoạt động của ngân hàng
mà còn phản ánh đại bộ phận hoạt động của nền kinh tế. Xuất phát từ vị trí, vai trò
quan trọng của công tác kế toán cho vay. Trong những năm qua ngành Ngân hàng
đã tập trung cải tiến, đưa công nghệ mới hiện đại như vi tính nối mạng vào công tác
kế toán nên đã đem lại kết quả tốt, góp phần vào sự phát triển và hội nhập của
ngành Ngân hàng cũng như nền kinh tế đất nước.
Hiện nay các Ngân hàng từng bước đổi mới nghiệp vụ tín dụng để hoàn thiện hơn
nữa mặt nghiệp vụ này nhằm đem lại hiệu quả cao cho Ngân hàng.Tuy nhiên để
thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng thì phải tổ chức tốt nghiệp vụ kế toán cho vay, bởi
lẽ kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh toàn bộ kế toán cho vay, thu
nợ, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng.Xuất phát từ tầm quan trọng của kế
toán cho vay nên trong những năm đổi mới, Nhà nước nói chung cũng như ngành
Ngân hàng nói riêng đã tập trung giải quyết, hoàn thiện chế độ kế toán cho vay đối
với nền kinh tế nên kế toán cho vay đã thu được những kết quả bước đầu.

Tuy nhiên kế toán cho vay nói chung và kế toán cho vay hộ sản xuất nói riêng hiện
nay còn một số tồn tại cần phải giải quyết.Qua nghiên cứu thấy rõ được tầm quan
trọng của công tác kế toán cho vay, để phản ánh kết quả trong thời gian học tập vừa
qua tôi đã lựa chọn đề tài :"Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất phát triển
các ngành nghề thủ công nghiệp tại NHNo & PTNT tỉnh Hải Dương"để viết bản
chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm các phần cơ bản như sau:

Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng và khách hàng có hoàn trả. Tín dụng
Ngân hàng là tín dụng bằng tiền được thể hiện một bên là Ngân hàng với một bên là
các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, các thành phần kinh tế. Trong đó,
Ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng là đi vay để cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường vốn bằng tiền của các đơn vị, các tổ chức kinh tế
không giống nhau về cả số lượng và thời gian. Trong cùng một thời gian, đơn vị này
thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng đơn vị khác lại thừa vốn không sử dụng hết.

Trong khi đó các đơn vị hoạt động lại không phụ thuộc vào nhau. Do vậy sự thiếu
vốn của đơn vị này và sự thừa vốn của đơn vị kia cùng một thời gian đều có ảnh
hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh.Nếu không có sự điều hoà vốn
từ nơi thừa sang nơi thiếu thì nền kinh tế không thể phát triển được.
Do vậy cần thiết phải có một tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ điều hoà vốn trong nền
kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng nói chung và tín dụng
Ngân hàng nói riêng.
Nền kinh tế xã hội phát triển được từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và cho đến
ngày nay cũng có phần đóng góp vai trò đáng kể của ngành Ngân hàng nói chung và
tín dụng Ngân hàng nói riêng
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là đi vay để cho vay, huy động mọi
khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất quy định của Nhà nước để cho các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội có nhu cầu vay vốn với
lãi suất cao hơn lãi suất huy động. Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng của Ngân
hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống Ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường, vốn cho vay là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy tín dụng Ngân hàng có một vị trí hết sức
quan trọng đối với bản thân Ngân hàng.
Cùng với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá, vai trò của tín dụng Ngân
hàng cũng phát triển và hoàn thiện. Tín dụng Ngân hàng có một vai trò hết sức quan
trọng trong nền kinh tế xã hội.

cho vay của Ngân hàng luôn luôn là công cụ điều chỉnh quan hệ cung - cầu vốn tín
dụng. Gắn liền với nền kinh tế thị trường là kinh doanh và lợi nhuận. Hoạt động
kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng là đi vay để cho vay và như vậy nếu xảy ra điều
rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ dẫn đến rủi ro
của Ngân hàng, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán.
Chính vì lẽ đó mà trong nền kinh tế thị trường, mỗi Ngân hàng trong môi trường
cạnh tranh phải dựa vào nghệ thuật quản trị kinh doanh vào việc đổi mới công nghệ
và nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng, thông qua hoạt động Marketting Ngân hàng và
việc nhanh chóng sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật nhằm thu hút tối đa nguồn
vốn tiềm tàng trong nền kinh tế để thực hiện kinh doanh đáp ứng yêu cầu vốn cho
tăng trưởng kinh tế, tạo lợi nhuận cho Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các chính sách tài chính tiền tệ, sự hoạt động
của thị trường tài chính, thị trường vốn, thị trường tiền tệ tín dụng ngân hàng góp
phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều đó vừa làm tăng
trưởng khả năng tích luỹ tư bản (trong đó phần lợi nhuận) của các ngân hàng, vừa

thúc đẩy quá trình tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng kinh tế làm cho hệ thống Ngân
hàng ngày càng lớn mạnh.
2.2 - Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng
quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế:
Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi giữa
các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển rất đa dạng cả về nội dung
và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo
điều kiện cho sự phát triển của mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển như Việt
Nam.
Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực hợp
tác kinh tế quốc tế thông dụng. Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất
nhập khẩu của các nước. Cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng, cùng với sự
tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế, tín dụng ngân hàng đã làm tăng
mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu,

lạm phát tiền tệ:

Nền kinh tế hàng hoá luôn luôn chuyển động theo hai chiều hướng: Phát triển theo
nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát. Cả hai trường hợp đó đều
có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn từ huy động các đồng tiền nhàn rỗi trong nền
kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số giá cả đánh giá hàng hoá
để thu hút được nguồn vốn đủ lớn cho việc đầu tư vào các công trình trọng điểm mà
chiến lược kinh tế đã đề ra. Nếu không dùng công cụ tín dụng ngân hàng để huy
động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức thì có lúc Nhà nước phải
huy động trái phiếu, kỳ phiếu, thậm trí phải phát hành giấy bạc.
Hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa kinh tế to
lớn nó không làm tăng thêm khối lượng tiền lưu thông nên không ảnh hưởng đến
lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu Nhà nước phát hành tiền giấy cho ngân
sách dù có đưa vào đầu tư phát triển các chương trình kinh tế mang tính chiến lược
cũng dẫn đến tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây lên lạm phát ảnh hưởng
trực tiếp đến giá cả và đời sống xã hội.
Trong thời gian qua trọng tâm của công tác tín dụng là tích cực huy động vốn để
cho vay. Theo định hướng của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là:
"Ngân hàng phải đi vay để cho vay". Tập trung vốn vào các công trình trọng điểm,
các ngành sản xuất như: Nông nghiệp, sản xuất hàng hoá xuất khẩu Ngân hàng
cũng như Kho bạc Nhà nước tích cực đa dạng hoá các hình thức huy động vốn,
chính vì vậy đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.

Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ để
Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân công lao động xã
hội, tiết kiệm phát hành tiền vào lưu thông, sử dụng có hiệu quả vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội, góp phần kiềm chế lạm pháp, ổn định sức mua của đồng tiền.
Rõ ràng thông qua vai trò tín dụng với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại và
các tổ chức tín dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, tín

của các Ngân hàng thương mại.
- Đứng ở góc độ kế toán khi thu nợ, thu lãi kế toán cho vay đã giúp cho Ngân
hàng thu nợ gốc, lãi đầy đủ, chính xác, kịp thời.
- Thông qua kế toán cho vay, Ngân hàng cũng như bạn hàng của doanh nghiệp đánh
giá được khả năng hấp thụ của doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả không? Để từ
đó đánh giá xu thế vận động của doanh nghiệp trên thị trường, giúp cho ngân hàng
và bạn hàng của các doanh nghiệp có chiến lược đầu tư phù hợp, có hiệu quả.
- Kế toán cho vay là công cụ để đảm bảo an toàn tài khoản vốn vay của Ngân hàng,
đồng thời hạn chế rủi ro, góp phần ổn định nguồn thu nhập của Ngân hàng. Thông

qua việc ghi chép quá trình cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn nợ hàng ngày, lưu hồ
sơ vay vốn thể hiện kế toán cho vay bảo vệ an toàn một khối lượng tài sản lớn của
bản thân Ngân hàng và khách hàng.
2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay
- Xác lập chứng từ kế toán cho vay một cách hợp lệ, hợp pháp nhằm tạo cơ sở hành
lang pháp lý giữa Ngân hàng và khách hàng.
- Mở đầy đủ các loại sổ sách (nội ngoại bảng) để hạch toán ghi chép, phản ánh một
cách đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ các khoản cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn
nợ để thu nợ và hỗ trợ thu nợ kịp thời các món vay đến hạn, tính thu lãi đúng lãi
suất, đúng thời gian quy định, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng của Ngân
hàng thương mại. Trên cơ sở đó giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay và tổ
chức quản lý lưu trữ hồ sơ theo qui định đảm bảo an toàn tài sản của Ngân hàng.
- Kế toán cho vay phối hợp với bộ phận tín dụng quản lý các khoản cho vay đem lại
hiệu quả cao của mỗi món vay cụ thể: kế toán cho vay cung cấp thông tin chính xác,
kịp thời về số liệu những món vay đã quá hạn, sắp đến hạn để cán bộ tín dụng có kế
hoạch đôn đốc thu nợ kịp thời, đồng thời cung cấp cho Lãnh đạo quản lý, điều hành
có hiệu quả.
-Như vậy, kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng khác thông
qua các hoạt động của mình giúp cho Ngân hàng vừa thực hiện được chức năng
kinh doanh, vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế, với vai trò quan trọng đó, hệ thống

hàng đúng hạn.
Khi khách hàng trả nợ hạch toán ghi:
Nợ :TK tiền mặt
Nợ :TK tiền gửi (nếu trả bằng chuyển khoản).
Có :TK cho vay khách hàng.
Nếu đến hạn trả gốc và lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng thì khách
hàng phải làm đơn xin điều chỉnh kỳ hạn hoặc xin gia hạn số tiền gốc và lãi đó.
+ Nếu được Ngân hàng chấp thuận cho gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ thì kế
toán cho vay điều chỉnh kỳ hạn nợ trong máy tính và lưu đơn gia hạn hoặc điều
chỉnh của khách hàng vào hồ sơ vay vốn.
+ Nếu không được ngân hàng chấp thuận việc khách hàng xin điều chỉnh kỳ hạn nợ
hoặc gia hạn nợ của khách hàng thì kế toán căn cứ vào hồ sơ khế ước của khách
hàng chuyển nợ quá hạn (sau 10 ngày) đối với món vay. Kế toán hạch toán ghi:
Nợ: TK nợ quá hạn
Có: TK cho vay trong hạn.

Các hồ sơ chuyển sang nợ quá hạn được lưu ở một cặp riêng để làm căn cứ cho việc
đôn đốc thu hồi nợ trong việc phân tích hoạt động tín dụng cũng như phân tích
phòng ngừa rủi ro.
1.2 - Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (Cho vay bổ xung vốn lưu động):
Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là khách hàng cùng với Ngân hàng
thoả thuận một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản
xuất kinh doanh trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu về vốn của đơn
vị.
Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường áp dụng cho những doanh
nghiệp có khả năng tài chính lành mạnh, sản xuất, kinh doanh ổn định và nhu cầu
vốn vay, trả thường xuyên, có uy tín trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Ngân
hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng, thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì
trong thời hạn nhất định, điều kiện vay trả, mức lãi suất, cách thức trả nợ cũng như
quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên làm căn cứ.

cùng khách hàng ký bổ sung hợp đồng tín dụng.

Việc ký kết hợp đồng tín dụng mới được thực hiện trước 10 ngày hạn mức tín dụng
cũ hết hạn khách hàng gửi cho Ngân hàng kế hoạch vay vốn kỳ tiếp theo.
Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng và chu kỳ sản xuất, kinh doanh kế tiếp,
Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng và thời hạn cho vay mới
1.3. Cho vay theo dự án đầu tư:
Ngân hàng nông nghiệp cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Ngân hàng nông nghiệp nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả
thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ
hạn trả nợ.
Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án.
Mỗi lần rút vốn, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức vốn đầu
tư đã thoả thuận; kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn
trong hợp đồng tín dụng.
Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí cho
dự án duyệt trong thời gian chưa vay được vốn
1.4. Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án
vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một tổ chức tín dụng
làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp
đồng vốn thực hiện theo quy định của Quy chế này và Quy chế đồng tài trợ của các
tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng ban hành.

1.5. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều
kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
1.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.Tổ
chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự

- Chứng từ tiền mặt gồm: Phiếu thu, phiếu chi, séc, giấy gửi tiền, giấy rút tiền,
giấy nộp tiền, giấy lĩnh tiền.
- Chứng từ chuyển khoản gồm: Phiếu chuyển khoản, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm
thu, séc, TTD.
- Bảng kê các loại gồm: Bảng kê nộp séc, bảng kê số dư tính lãi, bảng kê quyết
toán lãi cho vay, bảng kê thanh toán các loại:
Giấy báo chuyển tiền nội, ngoại tỉnh.
Lệnh chuyển tiền trong chuyển tiền điện tử.

Các chứng từ hạch toán tài sản và chứng từ ngoại bảng (như phiếu xuất tài sản,
phiếu nhập tài sản).
Về nguyên tắc thì tất cả các chứng từ kế toán Ngân hàng (bao gồm chứng từ do
Ngân hàng lập và chứng từ do khách hàng lập) đều phải lập đúng mẫu và ghi đầy đủ
các yếu tố theo quy định. Chứng từ có thể lập trên máy tính (danh mục chứng từ
được phép lập trên máy tính theo quy trình giao dịch trực tiếp do tổng giám đốc quy
định). Các chứng từ có nhiều liên phải được lập một lần trên tất cả các liên bằng
máy chữ, máy tính hoặc viết lồng lót giấy than. Phải ghi đầy đủ các yếu tố theo quy
định sau:
- Các yếu tố trên chứng từ phải viết bằng bút mực hoặc bút bi mầu tím, xanh, đen,
không được viết bằng mực đỏ (trừ các chứng từ kế toán lập để điều chỉnh sai sót).
Không được viết bằng bút chì trên các loại chứng từ và không được viết bằng hai
loại bút hai mâù mực khác nhau trên cùng một chứng từ, chữ viết trên chứng từ phải
rõ ràng, trung thực, chính xác không viết tắt, viết mờ hoặc nhoè chữ. Không được
tẩy xoá, sửa chữa bằng bất kỳ hình thức nào đối với các yếu tố trên chứng từ.
- Số tiền trên chứng từ bắt buộc phải ghi số tiền bằng số (căn cứ mẫu chứng từ).
Chữ đầu của số tiền bằng chữ phải viết hoa và sát đầu dòng của dòng đầu tiên,
không được viết cách dòng, cách quãng giữa các chữ, không được viết thêm chữ
vào giữa hai chữ viết liền kề nhau trên chứng từ. Nội dung nghiệp vụ ghi trên chứng
từ phải rõ ràng, rễ hiểu, chữ ký của khách hàng và cán bộ Ngân hàng trên tất cả các
loại chứng từ kế toán đều bắt buộc phải ký tay từng tờ bằng bút tím, đen

Bên có: Ghi số tiền Ngân hàng thu nợ trên cơ sở tiền bán hàng hay các khoản thu
nhập khác nộp vào.
Dư nợ: Phản ánh số tiền khách hàng còn nợ Ngân hàng.
Trường hợp hết số dư mà khách hàng vẫn nộp tiếp các khoản thu của mình cho
Ngân hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào tiền gửi thanh toán.
Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và Ngân hàng không phải bao giờ người vay
cũng trả nợ Ngân hàng đúng kỳ hạn.
Trường hợp đến hạn trả người vay không trả được nợ, cũng không được Ngân hàng
cho gia hạn nợ thì số nợ đó được chuyển sang tài khoản “Nợ quá hạn“ để theo dõi
thu hồi với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất vay bình thường.
Kết cấu tài khoản nợ quá hạn:
Bên nợ: Ghi số tiền chuyển sang nợ quá hạn.
Bên có: Ghi số tiền thu nợ quá hạn.
Dư nợ: Thể hiện số dư nợ quá hạn chưa trả.
Các tài khoản cho vay, nợ quá hạn đều được mở theo từng loại nợ và theo từng đơn
vị vay để theo dõi.
IV. QUI trình kế toán cho vay – thu nợ

1. Qui trình kế toán cho vay từng lần.
1.1. Kế toán giai đoạn cho vay
Mỗi lần vay người vay làm giấy đề nghị vay vốn gửi tới Ngân hàng để trình bày lý
do xin vay. Đây là căn cứ để Ngân hàng xem xét, tính toán, quyết định cho vay và
lập hợp đồng tín dụng.Nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay thì bộ phận
kế toán thực hiện việc hạch toán cho vay. Bộ phận kế toán kiểm soát lại và hướng
dẫn khách hàng lập các chứng từ kế toán, nhận tiền vay theo qui định và ghi đầy đủ
các yếu tố trên chứng từ.
Căn cứ vào chứng từ như giấy lĩnh tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt) hoặc uỷ
nhiệm chi (nêú giải ngân bằng chuyển khoản) kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ
liệu vào máy tính.
Nợ: - TK cho vay ngắn hạn của người vay

nợ (số dư bằng 0) được xuất khỏi hồ sơ tín dụng để đóng thành tập riêng, hoặc đóng
vào tập nhật ký chứng từ nếu số lượng hợp đồng tín dụng ít.

Đối với những khoản vay có thế chấp, kế toán làm thủ tục dể ghi xuất ngoại
bảng, trả lại giấy tờ thế chấp tài sản cho người vay.
* Kế toán thu lãi
Tính thu lãi cho vay từng lần theo phương pháp tính lãi đơn Tiền lãi tính
một lần khi thu nợ gốc. Hàng tháng Ngân hàng vẫn tính lãi để hạch toán vào tài
khoản " tiền lãi tính dồn dự thu ", khi người vay trả nợ gốc và lãi sẽ tất toán tài
khoản này.
Công thức tính lãi:
Số tiền lãi = Số tiền vay (gốc) x Lãi suất cho vay x thời gian vay
Tính thu lãi theo kỳ hạn tháng hoặc năm thì chỉ tính ngày vay, không tính ngày trả
nợ, tức là chỉ tính ngày đầu tiên chứ không tính ngày cuối trả nợ.
Hạch toán thu lãi cho vay: hàng tháng kế toán tính và hạch toán dự thu l•i,
ghi:
Nợ: TK Tiền lãi tính dồn dự thu
Có: TK Thu nhập - thu lãi cho vay
Khi khách hàng vay trả lãi, Ngân hàng hạch toán:
Nợ: -TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt)
-TK Tiền gửi (nếu trích từ tài khoản tiền gửi của người vay)
Có: TK Tiền lãi tính dồn dự thu.
Trường hợp số lãi phải thu đã hạch toán vào tài khoản của "tiền l•i tính dồn
dự thu" đối với những khoản cho vay trung hạn nhưng người vay không thanh toán
được đúng hạn ghi trong hợp đồng tín dụng thì sau 90 ngày kể từ ngày đến hạn ghi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status