Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng - Pdf 21

HỘI LƯU HỌC SINH VIỆT NAM TẠI
NAM KINH – GIANG TÔ – TRUNG QUỐC

BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NĂM 2011
Họ và tên:
Ngày sinh:
Quê quán:
Đơn vị công tác:
Nam Kinh, Tháng 5 năm 2011
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
MỤC LỤC
Câu hỏi 1: Trong hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại như thế nào? 3
Câu hỏi 2: Trình bày những mục tiêu tổng quát, mục tiêu đến giữa thế kỷ 21 trong quá
trình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo bệ Tổ Quốc ? Các phương hướng cơ bản để
thực hiện mục tiêu đó là gì? 12
Câu hỏi 3: Cương lĩnh chính trị là gì? Những định hướng lớn về xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước là gì? 12
Câu hỏi 4: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định ra sao ? 14
Câu hỏi 5: Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như
thế nào? 15
Câu hỏi 6: Những người như thế nào thì có thể được xét kết nạp Đảng? Vì sao "thừa
nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm
vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng" là điều kiện quan trọng nhất
đối với người muốn vào Đảng? 16
Câu hỏi 7: Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên? Vì sao vấn đề
xây dựng động cơ vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định
đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên? 18

hậu quả nghiêm trọng kéo dài. Về văn hóa- xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu
dân, khuyến khích văn hóa nô dịch, vong bản, sùng Pháp, kìm hãm dân ta trong vòng
tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng. Với chính sách khai thác
thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai
cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ thuộc địa, nửa phong kiến. Chính sách thống trị của Pháp và bọn
tay sai đã tạo ra trong xã hội Việt Nam hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là giữa
nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến- chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột
của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó
mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống
thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không tách rời
nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh,
3
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết. Trong
quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và gian khổ, ác liệt, dân tộc ta sớm
hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng.
Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt
dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh
hướng khác nhau như phong trào Cần Vương, phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa
thục, Duy tân do cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và một số người yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản khởi xướng, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung
Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học tất cả các phong trào
đấu tranh đó dù vô cùng anh dũng nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn
bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh đó là những
người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn phản ánh
đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta thời kỳ đó đứng
trước cuộc khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Giữa lúc cách mạng Việt Nam

truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, mặt khác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi
khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh
mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy các tổ chức đảng được
thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên
bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc
gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một
đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân
tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch
sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Từ
ngày 6/1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị
nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành
lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những
năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và

dân tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động
và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” . Ngay khi vừa
mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phải đối mặt với ba thứ giặc hung
dữ: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đã làm cho hơn 2 triệu
đồng bào chết đói; trên 95% dân Việt Nam mù chữ; miền Bắc hơn 20 vạn quân
Tưởng, miền Nam trên 15 vạn quân Pháp lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực
lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của đất nước như “ngàn
cân treo sợi tóc”. Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra
những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta thực hiện sách
lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian củng cố lực
lượng chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về
nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn
kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng
như không qua được, củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng vượt qua tình thế
hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Bất
chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực
dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta càng nhân nhượng,
6
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
thực dân Pháp càng lấn tới. Lich sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới,
phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra Lời kêu gọi, nhân dân cả nước quyết tâm “ Thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!” Với đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh là chính, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn giành thắng lợi

“đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc
Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng
lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Song, trải qua 21 năm, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu kiên
cường, lại được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần
7
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Bằng cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết
lực lượng mà kẻ địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi, nhớ lại những
tình huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta càng thấy
rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. “Năm
tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí
tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX,
một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc !”
Thắng lợi oanh liệt mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ
của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới- thời kỳ độc lập thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế
nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại
nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm mọi cách phá hoại. Phong trào

phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế- xã hội 5 năm 1991-
1995, cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau 10 năm thực hiện đường
lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng, đất nước ta vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong hoàn
cảnh phức tạp, khó khăn, cách mạng nước ta không những đứng vững mà còn vươn
lên đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng (22-6 đến 1-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua
đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội
VII đề ra cho 5 năm 1991- 1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã
cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
xác định rõ hơn”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
“Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” .
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ từ năm 1996 đến năm 2000 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền
kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỷ sau”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) đã chỉ rõ: Thực tiễn phong phú và
những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của
Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên Chủ nghĩa
Xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng
các nước phát triển trên thế giới. Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân
ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới. Đại

mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đó là sự nỗ lực phi thường của toàn thể nhân
dân, của Đảng, Nhà nước ta. Cần nhấn mạnh, từ thực tiễn phong phú và sáng tạo của
công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơ bản.”
Chặng đường vẻ vang tám thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan
trọng là Đảng sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những
biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm
trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được
nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng ta là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân
chính duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào
10
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
có thể lãnh đạo cách mạng.
3. Những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng 80 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam không
ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu,
thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế

trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo bệ Tổ Quốc ? Các
phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu đó là gì?
Trả lời:
Mục tiêu tổng quát: Khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về
cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI: Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân
ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các phương hướng cơ bản:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phá triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ Xã hội Xhủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Câu hỏi 3: Cương lĩnh chính trị là gì? Những định hướng lớn về xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước là gì?
Trả lời:
1. Cương lĩnh chính trị
Cương lĩnh là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản chỉ rõ mục tiêu, đường lối,

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có
sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
13
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Câu hỏi 4: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định ra sao ?
Trả lời:
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là:
-
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh
đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan
lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban chấp hành đảng
bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
-
Tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức
-
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có
hơn một nửa số thành viên trong cơ sở Đảng tán thành. Trước khi biểu quyết mỗi
thành viên đều được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số
được quyền bảo lưu, được báo cáo lên cấp ủy cấp trên, đến Đại hội toàn quốc, song
phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị

như thế nào?
Trả lời:
Tiêu chuẩn của Đảng Viên:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn
đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó
mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện : thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động
trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân
tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
(Đại Hội Đại biểu Toàn quốc XI ,iều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam, Điều 1)
Đảng viên có nhiệm vụ:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân
công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công
tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện
tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều
đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân
dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở;
tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của

3. Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.
Qua những điều trên” Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức
cơ sở Đảng” là điều kiện quan trọng nhất để được xét vào Đảng bởi vì:
Là công dân cho nên đảng viên phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật. Nhưng khác với công dân, đảng viên còn ý thức sâu sắc được trách nhiệm chính
trị của mình là làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối
chính trị của Đảng. Do đó, muốn trở thành đảng viên phải thừa nhận và thực hiện
16
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng.
Đây là đòi hỏi quan trọng nhất đối với người vào Đảng. Nội dung điều kiện này
yêu cầu người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập
trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sắn sàng thực hiện
nhiệm vụ Đảng viên. Người vào Đảng phải có trình độ và sự tin cậy chính trị. Tiêu
chuẩn Đảng viên, điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định:”Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
Quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên lợi ích cá nhân; chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghĩ quyết của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành nhiệm vụ được giao; có
đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ
luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”
Tiêu chuẩn nói trên cũng là yêu cầu phấn đấu của những người muốn gia nhập
Đảng.
Đòi hỏi đối với người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyên thực
hiện. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã thừa nhận thực sự.
Hành động thực tế là thước đo nhận thức tư tưởng và ý thức phấn đấu của người vào
Đảng. Không thể coi là thừa nhận chủ nghĩa xã hội mà trong việc làm hàng ngày lại

Xây dựng động cơ vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa
quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên bởi vì:
Đối với người phấn đấu vào Đảng, cần trả lời câu hỏi: Vào Đảng để làm gì? Vì
sao lại vào Đảng?
Có thể có những câu trả lời khác nhau, kể cả hy vọng vào Đảng để đạt được
những mong muốn riêng. Lúc sinh thời, Bác Hồ dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng?
Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải! Chúng ta vào Đảng là để hết lòng
hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên”.
Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì
đứng vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh
cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to
lớn của mỗi chúng ta. Suốt đời Bác Hồ chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao nước được độc lập, dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
được học hành. Trước đây, vì mục đích lớn lao đó mà Đảng ta đã chấp nhận hy sinh
phấn đầu thì ngày nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng ta vẫn như vậy. Bước
vào thế kỷ XXI, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục
vững bước tiến lên dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh
xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa rất lâu dài, gian khổ. Thực chất
đó là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức. Mặt trái
của kinh tế thị trường, giao lưu mở cửa, hội nhập quốc tế cùng với âm mưu thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang đặt độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trước những thách thức mới. Dù khó khăn, phức tạp thế nào, chúng ta
cũng không bao giờ xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng của mình. Tiến lên chủ nghĩa
xã hội là quy luật tiến hóa của lịch sử, là yêu cầu khách quan của dân tộc ta. Động cơ
thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện của
những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp,
18
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011

nước khác thỏa hiệp trên lưng mình.”
-
Trong quan hệ với các nước, Việt Nam tôn trọng bạn bè quốc tế, mong muốn
hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, nhưng không bao giờ quên rằng, việc
đất nước mình thì mình phải tự lo. Ngược lại, khi nghĩ tới lợi ích của đất nước
mình thì cũng đừng quên nghĩ tới lợi ích của họ. Họ có lợi ích thì lúc đó quan
hệ của mình với họ mới bền và đáng tin cậy
-
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh điều này, có thể khó nghe: sự tôn trọng, đoàn kết,
hữu nghị ấy chỉ có và chỉ thực chất khi Việt Nam mạnh và độc lập tự chủ,
Việt Nam đủ khả năng tự bảo vệ mình. Không bao giờ có đoàn kết thực sự
khi bất bình đẳng, khi không tôn trọng nhau, muốn chi phối nhau đẩy chúng
ta bị lệ thuộc. Đây là yếu tố mang tính chất nội tại, quyết định đến việc giải
quyết các vấn đề an ninh của đất nước.
19
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
-
Hòa bình của chúng ta không phải là cầu hòa, Việt Nam không chấp nhận hòa
bình lệ thuộc. Khi ta đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình mà
nước khác cứ muốn xâm hại lợi ích của đất nước ta thì lúc đó, thế của ta sẽ
như cánh cung kéo hết, đã buông dây cung thì đó là sức mạnh vô cùng to lớn
của cả dân tộc để bảo vệ Tổ quốc mình.
-
Chủ quyền, độc lập tự chủ trước, hòa bình sau, vì không có độc lập tự chủ,
mất chủ quyền lãnh thổ thì còn gì nữa đâu mà nói hòa bình? Quyền tự quyết
của một đất nước là điều quan trọng nhất. Bác Hồ nói rồi, “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, mọi nỗ lực của Bác là có độc lập, tự do cho dân tộc. Có
mối quan hệ giữa chủ quyền và hòa bình, muốn có hòa bình phải có chủ
quyền lãnh thổ. Hai cái đó không thiếu được, tôi có một tư duy nhất quán về
chuyện này. Hòa bình vừa là động lực để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc, vừa là

Đảng. Mục đích là giúp tôi hiểu rõ hơn về các đường lối chính sách của Đảng, để một
khi đã được vào Đảng thì không bị bỡ ngỡ trước những đường lối, chính sách, nhanh
chóng hòa nhập và hoạt động một cách có hiệu quả. Ngoài ra tôi cũng nghiên cứu về
quá trình hoạt động của bác Hồ cũng như các vị lãnh đạo khác của Đảng giúp tôi có
được sự tự hào dân tộc, tự hào được dẫn dắt bởi những con người vĩ đại để từ đó đúc
rút kinh nghiệm bản thân phấn đấu và học tập noi gương theo những tấm gương đó.
3. Tích cực tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng cho mọi người, giới
thiệu Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Tháng 10/2010 tôi cũng đã tham gia vào một tối
văn hóa giới thiệu các dân tộc do hội trường tổ chức để giới thiệu với bạn bè Trung
Quốc những hình ảnh về Việt Nam. Mục tiêu trong tương lai của tôi là tiếp tục tuyên
truyền thông qua việc giao tiếp với bạn bè quốc tế, Internet để thể hiện rõ Việt Nam là
một quốc gia thống nhất, độc lập, dân chủ, là một dân tộc yêu hòa bình, mến khách và
luôn đấu tranh cho lẽ phải. Thể hiện rõ Việt Nam không chỉ là một anh hùng trong
đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc mà còn là một quốc gia có trình độ, có khả năng tự chủ
công nghệ cao để phát triển trong thời đại mới.
4. Tôi cũng cố gắng quan hệ tốt với mọi người, tích cực giúp đỡ người khác,
nhiệt tình tham gia các phong trào hoạt động của trường, lớp cũng như trong hội lưu
học sinh, tích cực học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản thân, có khả năng phê và tự
phê.
5. Tôi cũng tích cực hoạt động thể dục thể thao như tham gia vào hội diễn văn
nghệ LHS năm 2010, bóng đá và bóng chuyền năm 2011. Mục đích là vừa để nâng
cao sức khỏe bản thân vừa sẵn sàng một khi Tổ Quốc gọi, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
và giữ gìn độc lập Tổ Quốc dù cho kẻ thù có là ai.
6. Tôi cũng luôn cố gắng duy trì đường lối chính trị kiên định, nhất quán, không
nghe theo những lời kích động gây hại tới Đảng và Nhân dân. đặc biệt trong thời đại
thông tin bùng nổ như hiện nay việc tiếp xúc với các thông tin đa chiều, các thông tin
không tốt đối vơi Đảng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên tôi luôn tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, của chính phủ và luôn quyết tâm thực hiện đúng những sự lãnh
đạo đó.
21


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status