Một số vấn đề về chuẩn mực hoá ngôn ngữ: Đồng hoá từ mượn - Pdf 21

Một số vấn đề về chuẩn mực hoá ngôn ngữ
Đồng hoá từ mượn
Đồng hoá từ mượn
Một từ mượn, nếu không bị thay thế, thì còn trải qua một quá trình chịu những tác
động của người bản ngữ mới có vị trí vững vàng. Quá trình ấy là sự đồng hoá từ
mượn. Nói chung, nó biểu thị mặt tích cực, sáng tạo, của người bản ngữ đối với từ
mượn để nhằm tạo nên tính chất thuần nhất trong bản ngữ. Cho nên, trong sự
chuẩn mực hoá ngôn ngữ, đồng hoá từ mượn là một yêu cầu rất được chú ý. Nếu ta
nói đến sự Việt hoá từ mượn trong tiếng Việt thì chẳng hạn, người Pháp cũng nói
đến sự Pháp hoá những từ mượn trong tiếng Pháp…
Nhưng như thế nào là đồng hoá thì hình như không phải không có lúng túng trong
quan niệm, và do đó, trong các quy định chuẩn mực hoá, thí dụ, ở tiếng Pháp có từ
mượn pull-over quen thuộc, gốc tiếng Anh: về chính tả thì trong tiếng Pháp bắt viết
hoàn toàn như tiếng Anh; về ngữ âm, lại bảo phát âm theo tiếng Pháp (âm tiết cuối
phát âm “ve”, không phát âm phát âm “vơ”). Một sự Pháp hoá như vậy là chưa rõ
lẽ! Nếu dẫn những thí dụ về sự Anh hoá từ mượn gốc Pháp, cũng có thể nhận thấy
tình hình như thế. Chẳng hạn, trong tiếng Anh có từ debt (là nợ) vốn gốc Pháp là
dette, mà về phát âm chẳng khác gì nhau mấy, nhưng về chính tả, bên tiếng Anh
buộc phải có chữ b, chẳng qua là muốn Anh hoá, nhưng lại Anh hoá bằng các truy
tới gốc Latinh là debitum!
Tình hình đó ở các ngôn ngữ không cho phép ta, trong sự Việt hoá từ mượn, viện
dẫn một cái mẫu nào để theo. Vả lại, đồng hoá có ý nghĩa dân tộc hoá, cho nên
thường bao hàm, trong các quy định chuẩn mực hoá theo hướng đồng hoá, một
quan điểm dân tộc nào đó, ở một nước nào đó, vào một thời điểm nào đó, mà ta
không thể nghĩ là chân lí rồi!
Cho nên, yêu cầu nghiêm chỉnh là xem xét lại các tiêu chuẩn mà theo đó, từ mượn
có thể được coi là đồng hoá.
Thường có sự chú ý nhiều đến tiêu chuẩn ngữ âm. Quả nhiên, trong các ngôn ngữ
đều có thể nhận thấy hiện tượng một từ mượn khi đã được chấp nhận, thì cái chất
liệu ngữ âm ngoại của nó chuyển dần theo chất liệu ngữ âm bản ngữ. Trong tiếng
Việt, nhưng từ như săm, lốp, líp và cái từ lò xo nói trên kia, vốn là từ mượn gốc

nguyệt, thì vào sau, cho là bắt đầu từ năm 939 lịch sử, và đặc biệt, và đặc biệt, theo
con đường văn hoá, sách vở, cho nên đã ổn định. Những từ này, về các mặt khác
thì chưa, nhưng về ngữ âm, cũng là đã đồng hoá. Quả vậy, thơ chữ Hán đọc lên
nghe không hiểu hết, hay chẳng hiểu gì hết, nhưng về âm thanh, cảm thấy không
xa lạ như tiếng phương Tây.
Do tính chất không xa, lại có vẻ gần ấy về ngữ âm của từ Hán-Việt mà sinh ra
trong tiếng Việt cái xu hướng quá trọng chất liệu ngữ âm Hán-Việt, so với chất liệu
ngữ âm tiếng Pháp, tiếng Anh. Xu hướng ấy thể hiện rất rõ ở hiện tượng tên riêng
của tiếng nước ngoài nào, phương Tây hay phương Đông, cũng đến Hán-Việt hoá
đi cả, vì như vậy dễ nghe hơn. Xu hướng ấy sản sinh ra những cái kì quái như:
“Mạnh đức tư cưu”, “Ái nhĩ lan”,… song vẫn được chấp nhận, hoan nghênh trong
cái tâm lí của thế hệ những người song ngữ văn hoá Việt-Hán ở đầu thế kỉ này.
Nhưng đến những thế hệ sau, với lớp người song ngữ văn hoá không phải Việt-
Hán nữa, là sinh ra phản ứng chống đối. “Mông tét ki ơ”, “Iếclăng” hoặc “Ai len”,
dù thế nào, cũng thể hiện một tâm lí mới, ở một thời đại mới. Tâm lí ấy đòi hỏi một
giải pháp khác, theo nguyên tắc khác; chính vì đến nay chưa chưa định nên giải
pháp chưa rõ. Nếu nguyên tắc về “từ ngoại” nói trên được chấp nhận, và cái thói
quen “dễ nghe” được coi là một tiêu chuẩn không thể quyết định tất cả thì giải
pháp “Montesquieu”, “Ireland”, thiết tưởng mới rõ lẽ; cũng là cái lẽ cố gắng văn
hoá, và là cái lẽ thuận theo sự phát triển của con người, của ngôn ngữ, của thời đại.
Xu hướng nói trên còn thể hiện ở hiện tượng coi từ vựng Hán-Việt như một nguồn
cung ứng tự nhiên của từ vựng tiếng Việt, đặc biệt ở phạm vi thuật ngữ. Chất liệu
nội dung mới, tự phương Tây đến với ta, đặc biệt trong phạm vi tư tưởng, chính trị,
văn hoá, kinh tế… đều phải thông qua, thực vậy, cái cửa Hán-Việt hoá. Chính thế,
philosophie = triết lí, triết học; république = cộng hoà; culture = văn hoá…
Những sự đối chiếu, những đẳng thức như vậy chỉ có mặt tiện lợi về hình thức,
trong đó mặt ngữ âm là quan trọng, chứ không phải là tất yếu về nguyên tắc, đặc
biệt khi xem xét mặt nội dung. Cho nên, những thuật ngữ như o-xy-gen thay dưỡng
khí, hi-dro-gen thay khinh khí, lô-gích thay luận lí… và những câu hỏi như nên là
điều khiển học hay nên là xi-béc-nê-ltic hoặc cybernelique… đều có ý nghĩa là

ngữ đối với từ mượn.
Trong tiếng Việt có thể dẫn thí dụ sau: tha hoá, hủ hoá là từ Hán-Việt thì được
chấp nhận dễ dàng, nhưng đối với nhưng từ mới như môi hoá (“cách phát âm môi
hoá”), xanh hoá (“xanh hoá đồi trọc”), axít hoá (“sự axít hoá”)… thì bây giờ, cuối
cùng đành phải chấp nhận, nhưng còn băn khoăn, và trước đây không lâu, thì đã
gây ra mỉa mai, thậm chí phẫn nộ; chẳng qua cũng tại cách nhìn như đã nói: yếu tố
Hán-Việt kết với yếu tố Hán-Việt hay yếu tố Việt với yếu tố Việt là điều tất nhiên,
là thuần khiết; còn yếu tố Việt với yếu tố Hán, và tệ hơn, yếu tố Pháp với yếu tố
Hán là lai, là lộn xộn, bừa bãi! Cách nhìn đó quả là có hẹp hòi và bị thực tế của
ngôn ngữ, của cuộc sống vượt qua. Những từ mới cứ tiếp tục hiện ra: trẻ hoá (“trẻ
hoá đội ngũ cán bộ”)!
Ngoài các hiện tượng đồng hoá về ngữ âm và đồng hoá về ngữ pháp, còn có hiện
tượng đồng hoá về ngữ nghĩa. Một từ mượn khi mới được chấp nhận thì chỉ có một
nghĩa và có thể giữ mãi cái nghĩa đó, thường là trong trường hợp thuật ngữ.
Nhưng, ngoài trường hợp ấy, nó có thể biến đổi nghĩa, sự biến đổi nghĩa cũng là
một hình thái đồng hoá của từ mượn, mà lại ở mức độ sâu sắc, tế nhị.
Trong tiếng Việt, từ mượn gốc Pháp có thể đồng hoá về nghĩa mà kết hợp với đồng
hoá về ngữ âm và ngữ pháp. Một thí dụ: từ phớt là mượn của tiếng Pháp: flegmen,
tiếng Pháp vốn mượn của tiếng Anh: phlegm; nhưng ở tiếng Anh, tiếng Pháp, thì
chỉ có nghĩa như trong “nó phớt tỉnh” mà không có cái nghĩa sinh ra ở tiếng Việt,
như trong: “nó phớt tôi”.
Tuy vậy, trong tiếng Việt, hiện tượng đồng hoá về ngữ nghĩa là chủ yếu ở những từ
Hán-Việt. Những thí dụ như sau thường được dẫn: tử tế vốn có nghĩa là cẩn thận,
nhưng hiện nay được dùng theo nghĩa khác; lịch sự vốn có nghĩa là từng trải, như
lịch duyệt, nhưng hiện nay không còn được dùng theo nghĩa ấy nữa. Về những
trường hợp như trên thì ai cũng thấy và chấp nhận sự biến đổi nghĩa. Nhưng có rất
nhiều trường hợp tế nhị ít được chú ý hơn, thường là những từ đơn, vào tiếng Việt
cũng đã lâu và hay được dùng làm những yếu tố cấu tạo từ. Thí dụ: yếu tố lạc trong
những từ siêu lạc, lệch lạc, lạc lõng… của tiếng Việt là đã chuyển đi khá xa về ngữ
nghĩa tự cái gốc lạc Hán-Việt, cho nên đối với những trường hợp như lạc đề, lạc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status