hình tượng người phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu số việt nam hiện đại (khu vực phía bắc) - Pdf 22


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI THU TRÀ HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(KHU VỰC PHÍA BẮC) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA SĨ NGỮ VĂN


CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(KHU VỰC PHÍA BẮC) Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng thành kính, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình
tới PGS. TS Trần Thị Việt Trung - ngƣời thầy hƣớng dẫn khoa học đã tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ và hƣớng dẫn em trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại
học - trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên, các thầy cô giáo công tác tại
Viện Văn học, các thầy cô giáo trƣờng Đại học sƣ phạm I - Hà Nội, các thầy
cô giáo trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, đã giúp em hoàn thành
khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới BGH, bạn bè, đồng nghiệp
trƣờng THPT Cảm Ân, sở GD & ĐT tỉnh Yên Bái, cùng những ngƣời thân
yêu trong gia đình đã luôn giúp đỡ, quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi
điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khóa học.

Thái Nguyên, tháng 09 năm 2011
Tác giả
Bùi Thu Trà

2.3 Những con ngƣời lƣu truyền vẻ đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc 54
2.3.1.Vẻ đẹp trong trang phục truyền thống dân tộc 54
2.3.2.Vẻ đẹp trong lối ứng xử văn hóa dân tộc 62
CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ THƠ GIÀU CHẤT TẠO HÌNH - MỘT NÉT
ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA HÌNH TƢỢNG
NGƢỜI PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ 81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ii
3.1 Tính tạo hình trong ngôn ngữ thơ 81
3.2 Ngôn ngữ tạo hình -nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình tƣợng
ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số 83
3.2.1 Hệ thống từ vựng giàu tính tạo hình 83
3.2.2 Các phƣơng tiện và biện pháp tu từ 92
PHẦN KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
PHẦN PHỤ LỤC 121 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1

PHẦN MỞ ĐẦU

1- Lý do chọn đề tài
1.1 Nhƣ chúng ta đã biết, ngƣời phụ nữ có một vai trò vô cùng quan
trọng trong cuộc sống của con ngƣời. Chiếm một nửa nhân loại, chính họ là

bản sắc. Một trong những thành tựu nổi bật của nền văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại chính là ở thể loại thơ. Các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt
Nam đã tạo nên một nền thơ ca riêng - nhƣ một vƣờn hoa đầy hƣơng sắc, một
tấm thổ cẩm rực rỡ - và cũng đã dần khẳng định đƣợc mình khi góp một tiếng
nói riêng, một thế giới nghệ thuật thơ riêng giàu bản sắc văn hóa dân tộc, góp
phần tạo nên sự phong phú đa dạng cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Nổi bật
trong thế giới hình tƣợng nghệ thuật thơ dân tộc thiểu số là hình tƣợng ngƣời
phụ nữ dân tộc thiểu số. Đây là một hình tƣợng nghệ thuật lớn, có vai trò
quan trọng trong sáng tác của các nhà thơ, nó có ý nghĩa lớn về tƣ tƣởng nghệ
thuật và phong cách nghệ thuật của các nhà thơ. Do đó, nghiên cứu về hình
tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại cũng chính là nghiên cứu phần thành tựu tiêu biểu, nét đặc sắc của
thơ ca dân tộc, nghiên cứu một phần chân dung, nhân cách con ngƣời và đặc
điểm văn hóa của dân tộc ta trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.
1.3 Việc nghiên cứu thơ các dân tộc thiểu số nói chung, trong đó có
việc nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu số
nói riêng - cho tới nay có thể thấy: vẫn chƣa thực sự thu hút đƣợc sự chú ý
xứng đáng của giới nghiên cứu, phê bình và cả của đông đảo bạn đọc. Cho
nên, mặc dù đã có hàng chục cuốn sách nghiên cứu về thơ các dân tộc thiểu
số nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu cũng nhƣ chƣa xứng với tầm, với
vai trò quan trọng của nó cũng nhƣ với những thành tựu mà nó đã đạt đƣợc.
Các công trình nghiên cứu nói chung về vấn đề này mới chỉ dừng lại ở một số
nhận định, đánh giá ở những phƣơng diện nhất định về hình tƣợng quan trọng
này. Vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra và khẳng định những giá trị to lớn của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
hình tƣợng văn học đặc sắc này trong văn học dân tộc thiểu số là một vấn đề
vừa có tính cấp thiết, vừa có ý nghĩa khoa học và vừa có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn.

và miền núi”(Nxb Giáo dục, 2007)…Bên cạnh đó có một số các công trình
nghiên cứu, đánh giá về văn học các dân tộc thiểu số trong đó có hình tƣợng
ngƣời phụ nữ dân tộc nhƣ: “Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc” (Nxb Văn hóa,
1977); “40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-
1985) (Nxb văn hóa,1985) của GS Phong Lê; “Văn hóa các dân tộc - từ một
diễn đàn(1999) của hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam;
“Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (Nxb Văn hóa dân tộc,
1995); “Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” (NXb Văn hóa dân tộc,
1997”; “Về một mảng văn hóa dân tộc” (Nxb Văn hóa dân tộc, 1999);
“Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số” (Nxb Thanh niên, 2011) của Lâm Tiến;
“Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Duy Bắc,
1998) “Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số” (Lò Ngân Sủn,
2002); “Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam – Đời và văn” (2003,
2004); “Văn hóa các dân tộc thiểu số - Từ một góc nhìn” (Nxb Văn hóa
dân tộc,2004) của Vi Hồng Nhân; “Gƣơng mặt các văn nghệ sĩ dân tộc
thiểu số” (Nxb Văn hóa dân tộc, 2007) “Bản sắc dân tộc trong thơ các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (Trần Thị Việt Trung, 2010)…Ngoài ra còn
phải nhắc tới một số các bài nghiên cứu in trên các tạp chí, các báo văn nghệ
trung ƣơng và địa phƣơng nhƣ: “Văn học thiểu số trƣớc thềm thế kỷ XXI”
của Mai Liễu; “Bản sắc dân tộc - nỗi lo của ngƣời cầm bút” của Triệu Kim
Văn; “Nét mới của văn học các dân tộc thiểu số” của Dƣơng Thuấn; “Nhìn
lại văn nghệ các dân tộc thiểu số” của Nông Quốc Bình
Có thể nói rằng, văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cũng
đã thu hút đƣợc sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu, phê bình văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
học. Tuy nhiên, so với các công trình nghiên cứu đồ sộ về thơ Việt Nam hiện
đại nói chung - thì số lƣợng tác phẩm, công trình tổng kết, đánh giá về văn
học các dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, trong đó số lƣợng

Thu Huyền đã viết về nhà thơ ngƣời dân tộc Mƣờng - Bùi Thị Tuyết
Mai nhƣ sau: “Hình ảnh đẹp nhất và cũng độc đáo nhất chị tạo dựng đƣợc
trong thơ của mình ấy là hình ảnh ngƣời phụ nữ Mƣờng dịu dàng, nữ tính,
giàu tình thƣơng yêu. Thơ chị khiến ngƣời đọc hình dung thật rõ nét, sinh
động về phụ nữ Mƣờng với những công việc dệt vải, ƣơm tơ… nhƣng hơn hết
là những tình cảm sáng trong, nồng nàn đối với mọi sự vật xung quanh Chị
viết về tuổi mình, về ngƣời đàn bà với những hình ảnh lạ lẫm mà nhiều ẩn
ý…”[19]
Trong “Thơ Y Phƣơng” (2002) Phạm Hổ khẳng định: “Y Phƣơng càng
thành công hơn trong những bài thơ viết về tình yêu, tình vợ chồng. Viết về
ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ…”[58, tr. 252]
Lê Kim Vinh giới thiệu về Mã A Lềnh trong cuốn “Nhà văn dân tộc
thiểu số Việt Nam đời và văn”(2003) đã viết: “ Mã A Lềnh viết chƣa nhiều.
Nhƣng ở mỗi trang viết đều thể hiện sự cố gắng của anh trong việc miêu tả
cảnh sắc, con ngƣời miền núi (đặc biệt là ngƣời phụ nữ) với những đặc điểm
riêng với cách thức của riêng anh.”.[ 41, tr. 231]
Cũng trong cuốn sách này Trần Mạnh Hảo giới thiệu về Lò Ngân Sủn:
“Đối với Lò Ngân Sủn, cái đẹp đã phục sinh cái chết, ngƣời đàn bà đã, đang
và sẽ phục sinh lại cả thế giới đầy chết chóc của chiến tranh và phái
mạnh.[41, tr. 505]
Năm 2006, trong “Bàn Tài Đoàn - tuyển tập thơ văn” Bàn Minh
Đoàn đã viết: “ Về lao động sản xuất ông đã lột tả đặc điểm những con ngƣời
lao động ở miền núi bằng nhiều hình tƣợng sâu sắc và đẹp đẽ mang bản sắc
dân tộc nhất là phụ nữ đồng bào Dao nói riêng phụ nữ các dân tộc thiểu số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
nói chung. Họ là ngƣời hiền hòa, cần cù chịu khó lao động, sản xuất, thủy
chung với gia đình”[14, tr. 846]
Ths Đỗ Thị Thu Huyền trong bài viết “Thơ ca Tày hiện đại qua một

cách riêng. Với nhà thơ Mai Liễu thì: „Có lẽ hình tƣợng ngƣời mẹ trong thơ
Mai Liễu mới là hình tƣợng sâu đậm, đặc trƣng rõ nét nhất cái thần thái, hồn
cốt của quê hƣơng. Mai Liễu viết nhiều về mẹ với một tâm trạng thƣơng nhớ
day dứt cùng những hồi ức đầy xúc động về mẹ.” [87, tr. 224]; với Lò Ngân
Sủn và Pờ Sảo Mìn thì: “Khi viết về những ngƣời phụ nữ miền núi - Lò Ngân
Sủn và Pờ Sảo Mìn - thƣờng có một cảm hứng mãnh liệt, một sức sáng tạo bất
ngờ” [ 87, tr. 417]
Có thể nói rằng: Các ý kiến trên đây đã là những gợi ý hết sức quý báu
cho chúng tôi khi thực hiện luận văn này bởi các nhà nghiên cứu đã đề cập tới
vấn đề hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sáng tác của các nhà thơ ngƣời dân tộc
thiểu số ở các mức độ và các phƣơng diện khác nhau. Cụ thể là các vấn đề
sau: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi là nguồn cảm hứng lớn trong thơ của
các nhà thơ dân tộc thiểu số - đây là một trong những hình tƣợng trung tâm
luôn đƣợc các nhà thơ tập trung khai thác; những ngƣời phụ nữ hiện lên trong
các bài thơ mang một vẻ đẹp khỏe mạnh, đầy sự chất phác, hồn nhiên. Họ có
một sức sống mãnh liệt; có một vẻ đẹp đầy tính phồn thực và đặc biệt là rất
thủy chung, hy sinh hết lòng vì gia đình (bố mẹ, chồng con…), làng bản và
quê hƣơng. Hình tƣợng này góp phần phản ánh một cách sinh động cụ thể đời
sống tâm hồn, tâm linh, những phong tục tập quán và cuộc sống sinh hoạt của
các dân tộc miền núi.
Tuy vậy, các công trình nghiên cứu kể trên vẫn chƣa phải là những
chuyên đề nghiên cứu mang tính chuyên biệt về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân
tộc thiểu số. Ở đó, các tác giả mới chỉ nghiên cứu một số khía cạnh về hình
tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ của một số dân tộc thiểu số nhƣ (Thái, Mông,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Tày, Pa Dí, Giáy…). Cho đến nay, theo thống kê của chúng tôi - chƣa có công
trình nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo về hình tƣợng ngƣời phụ nữ
trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Do đó, chúng tôi đã lựa

sau: Y Phƣơng, Mai Liễu, Dƣơng Thuấn, Triệu Kim Văn, Lò Ngân Sủn, Pờ
Sảo Mìn, Bùi Thị Tuyết Mai. Để có thể chỉ ra những đặc điểm nổi bật về nội
dung và nghệ thuật biểu hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc trong thơ của
các nhà thơ dân tộc - chúng tôi sẽ đọc, tham khảo, nghiên cứu những công
trình phê bình thơ có nói về hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi. Ngoài ra,
chúng tôi cũng sẽ tham khảo một số sách lý luận để làm cơ sở lý thuyết của đề
tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu chính nhƣ sau:
1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại.
2. Phƣơng pháp phân tích.
3. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Và một số phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành khác nhƣ: văn hóa, lịch sử…
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tƣơng đối hệ
thống và toàn diện về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc miền núi trong thơ các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Khẳng định những nét đặc sắc trong hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc
thiểu số; những đóng góp quan trọng và phong cách nghệ thuật của các nhà
thơ dân tộc trong nền thơ hiện đại Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận phần nội dung chính của luận văn sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
đƣợc triển khai trong 3 chƣơng chính sau:
Chƣơng 1:Vài nét về thơ các dân tộc thiểu số hiện đại và hình tƣợng
ngƣời phụ nữ trong thơ

là văn học dân gian. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số gắn liền với đời
sống sinh hoạt của nhân dân lao động. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số
đa dạng và phong phú không kém gì nền văn học dân gian của ngƣời Kinh với
đủ các loại hình nhƣ: tục ngữ, đồng dao, hát ru, câu đố, dân ca, truyện lịch sử,
sử thi, truyện thơ Nhiều tác phẩm văn học dân gian các dân tộc thiểu số có
tên trong những đỉnh cao của văn học dân gian Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
Trong mảng thơ ca cách mạng của cả nƣớc những năm 1930 - 1945 có
đóng góp của các nhà thơ dân tộc nhƣ Nhắn bạn của Hoàng Văn Thụ; Lùa
chó dậy của Cầm Biêu; Mƣa gió, Khóc đồng chí của Nông Quốc Chấn; Dặn
vợ, dặn con của Bàn Tài Đoàn
1.1.1 Giai đoạn 1945 - 1954
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thơ ca Việt Nam phát triển với một
tốc độ khá mau lẹ. Trong không khí chung ấy, phong trào sáng tác thơ ca ở
miền núi phía Bắc cũng phát triển mạnh với các giả tiêu biểu nhƣ: Nông Quốc
Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Lƣơng Quy Nhân, Cầm Biêu,
Hoàng Nó, Bàn Tài Đoàn. Đây cũng chính là những nhà thơ có công đầu
trong việc khai sinh nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Tâm hồn thi sĩ và tinh thần yêu nƣớc của các nhà thơ thời kỳ mở đƣờng
cho thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đều đƣợc nuôi dƣỡng bởi
mạch nguồn văn hóa dân gian dân tộc miền núi. Hầu hết họ đều xuất thân từ
những gia đình lao động nghèo ở các bản làng miền núi xa xôi nên am hiểu và
gắn bó với đời sống nhân dân. Các nhà thơ đầu tiên của dân tộc thiểu số lại
đƣợc giác ngộ và hăng hái đi theo cách mạng từ rất sớm. Nông Quốc Chấn
tham gia cách mạng từ năm 1941, Bàn Tài Đoàn đã tham gia hoạt động cách
mạng bí mật ở địa phƣơng từ năm 1942, Lƣơng Quy Nhân tìm đến với Việt
Minh trƣớc năm 1945 Những tác phẩm của họ gắn bó chặt chẽ với những sự
kiện chính trị lớn lao của tổ quốc, với đời sống tâm hồn con ngƣời miền núi.

với cách mạng. Trƣớc cách mạng những ngƣời dân tộc thiểu số phải chịu
đựng ách thống trị dã man, tàn bạo của thực dân, phong kiến miền núi. Vì
vậy, tiếng nói tâm hồn chủ đạo của đồng bào các dân tộc thiểu số trong thơ
thời kỳ này là lòng căm thù, lên án sự tàn bạo của bọn cƣớp nƣớc; niềm vui
mừng, sự tin tƣởng khi đƣợc đi theo Đảng, Cách mạng và Bác Hồ.
Cuộc sống của những ngƣời dân tộc thiểu số trƣớc cách mạng là những
ngày tháng đói nghèo, khốn khổ. Nhà thơ ngƣời Dao - Bàn Tài Đoàn đã kể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
chuyện đời mình mà chính là chuyện đời của những ngƣời dân tộc thiểu số
trƣớc khi đƣợc đến với cách mạng:
Ngƣời dân bụng đói và áo rách
Dốt đặc chẳng biết chữ nào chơi
Có hai mắt mà nhƣ mù cả
Có tai nhƣ điếc cả cuộc đời
(Kể chuyện đời - Bàn Tài Đoàn)
Cuộc sống của ngƣời dân lại càng khó khăn hơn khi bị mất tự do, mất
quyền tự chủ: „Ta làm ra lúa, lúa không phải của ta/ Ta nuôi trâu, trâu đầy
rừng không phải trâu của ta” (Dƣới cờ Đảng - Lƣơng Quy Nhân)
Hình tƣợng nhân dân đƣợc các nhà thơ khắc họa khá sinh động trong
thời kỳ này: đó là những con ngƣời có lòng yêu nƣớc, căm thù giặc, một lòng
tin tƣởng đi theo cách mạng nhƣ Đi bộ đội (Nông Viết Toại); đó là tình cảm
thắm thiết, tin tƣởng của đồng bào với bộ đội Cụ Hồ, với Đảng và chính phủ
Khâu áo (Nông Quốc Chấn), Vợ lính ngụy mong chồng, Mƣờng Muổi yên vui
(Cầm Biêu)
Trong chiến tranh, ngƣời phụ nữ bao giờ cũng là nạn nhân chịu nhiều
bi thảm nhất. Hình tƣợng này xuất hiện trong nhiều bài thơ với nội dung biểu
hiện phong phú: Cầm Biêu lên án hành động dã man của thực dân Pháp khi
bắt lính, bắt phu đặc biệt là bắt phụ nữ Thái đi hầu rƣợu: “Pha Mò tiếng súng

Nông Quốc Chấn. Bộ đội Ông Cụ và Dọn về làng là hai bài thơ hay và tiêu
biểu cho thời kỳ này.
Về nghệ thuật thơ ca dân tộc thiểu số thời kỳ này có sự ảnh hƣởng và
kế thừa thơ ca dân gian truyền thống. Thể thơ 7 chữ đƣợc các nhà thơ thƣờng
xuyên sử dụng. Giọng điệu thơ chủ yếu là giọng tâm tình, kể lể. Thơ ca giai
đoạn này chủ yếu phản ánh cuộc sống, con ngƣời miền núi nhằm phục vụ chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc với đồng bào dân tộc thiểu số vùng
cao nên nhiều bài thơ viết còn đơn giản, tự phát.
Tuy vậy, thơ ca giai đoạn này vẫn có sự vận động, phát triển. Đội ngũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
các nhà thơ dần đông đảo, các tác phẩm vận động theo hƣớng hiện đại. Giọng
điệu thơ khá phong phú. Ngoài những bài thơ có mang giọng điệu tâm tình
trong truyện thơ Thái của Cầm Biêu, những bài thơ đậm chất tự sự của Bàn
Tài Đoàn, ta thấy giọng điệu thơ đa dạng trong thơ Nông Quốc Chấn: trào
lộng, mỉa mai trong Xem quan đi kinh lý, lối nói giản dị trong Bộ đội Ông
Cụ Hai bài thơ Em tắm của Bạc Văn Ùi và Nhớ vợ của Cầm Vĩnh Ui là hai
bài thơ hay trong văn học dân tộc thiểu số hiện đại bởi giọng thơ chân thành,
hồn nhiên của tác giả
Giá trị nổi bật của thơ ca giai đoạn này là các nhà thơ đã phản ánh
đƣợc thế giới tâm tƣ tình cảm và con ngƣời miền núi trong một giai đoạn lịch
sử. Những con ngƣời vƣợt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn để chiến đấu
cho cuộc sống tự do với một lòng căm thù giặc, với tin với Đảng, Cách mạng
và Bác Hồ.
1.1.2 Giai đoạn 1954 - 1975
Sau 1954, đời sống cách mạng của đất nƣớc ta có nhiều thay đổi: miền
Bắc đƣợc giải phóng, đất nƣớc ta bƣớc vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà. Ngƣời dân tộc thiểu số
đƣợc thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Họ có điều kiện đƣợc tiếp xúc, giao lƣu

bóng giặc Mỹ” (Biên giới lòng ngƣời - Lƣơng Quy Nhân).
Những đổi thay về phƣơng thức sản xuất, cảnh lao động tập thể trong
không khí lao động khẩn trƣơng sôi nổi, tinh thần đoàn kết xây dựng quê
hƣơng cũng là một cảm hứng lớn trong thời kỳ này. Đối tƣợng mà các nhà
thơ phản ánh ngợi ca là những con ngƣời đang trực tiếp hoặc gián tiếp phục
vụ sự nghiệp chung của của cả dân tộc: đó là những ngƣời lính canh giữ biên
thùy, là ngƣời công nhân làm đƣờng, là ngƣời nông dân một nắng hai sƣơng
trên ruộng đồng Từ cảm hứng về cuộc sống mới, hình tƣợng con ngƣời, đặc
biệt là ngƣời phụ nữ cũng đã đƣợc khắc họa cụ thể hơn. Ngƣời phụ nữ không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
còn mang thân phận bị phụ thuộc, giờ đây họ có một vị thế mới: những ngƣời
tự do đƣợc làm chủ cuộc đời mình và tham gia tích cực vào công tác xã hội.
Họ tham gia lao động trong hợp tác xã, trong các tổ đổi công, bộc lộ tài năng,
sự khéo léo của mình trong hội cấy thi, vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất. Họ đã trở thành hoa trong mƣờng:
Mẹ chờ con trai lại
- Tay mày sờ máy, mở tao nhìn
Mẹ nhìn con gái đến
- Tay mày cầm súng cầm có hay
Con gái xòe hai bàn tay
Con trai xòe hai bàn tay
(Hoa trong mƣờng - Vƣơng Anh)
Nhiều cô gái đã trở thành ngƣời công nhân lao động xây dựng chủ
nghĩa xã hội: “Khăn Piêu nhuộm nắng mƣa sa/ Sánh vang nam giới, ca vang
một lời/ Vì chị là ngƣời/ Công nhân trẻ tuổi.” (Chị em công nhân cầu đƣờng –
Hoàng Nó)
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đem lại cho nhân dân những
biến đổi lớn lao trong cuộc sống. Trƣớc cuộc sống tự do hạnh phúc hiện tại,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status