Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu ở thị trường việt nam - Pdf 22

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về thị trường cổ phiếu
1. Khái niệm về cổ phiếu
a. Cp phổ thông
b.Cp ưu đãi
2. Đặc điểm của Cổ phiếu
3. Những thành tựu đạt được
4. Các mặt hạn chế
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu ở thị trường Việt Nam.
1. Các yếu tố kinh tế
2. Yếu tố phi kinh tế
III. Một số giải pháp phát triển thị trường cổ phiếu Việt Nam.
1. Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để
đáp ứng nhu cầu thị trường
2. Phát triển thị trường cổ phiếu theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc,
được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với thị
trường khu vực và quốc tế
3. Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước
4. Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của của các tổ chức tham
gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin,
IV.Kết luận
1
LỜI MỞ ĐẦU
Một đất nước được coi là phát triển thực sự nếu thị trường tài chính của
nước đó hoạt động nhanh nhạy và hiệu quả. Là hạt nhân trung tâm của Thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán luôn thể hiện tốt vai trò tạo vốn và chu
chuyển vốn linh hoạt hơn trong nền kinh tế, là cầu nối giữa một bên là các nhà
đầu tư với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thế giới, thị trường

• Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là
khoản nợ đối với công ty.
• Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi
công ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
• Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi
công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán
lại cổ phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế.
• Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để
tăng vốn.
• Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định.
• Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải,
tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi số
lượng vốn góp vào công ty.
Các hình thức giá trị của Cổ phiếu thường
• Mệnh giá của cổ phiếu thường: Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh
nghĩa là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên
cổ phiếu.
• Giá trị sổ sách của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định
dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty.
3
Việc xem xét giá trị sổ sách, cho phép Cổ đông thấy được số giá trị tăng
thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn
góp ban đầu.
• Giá trị thị trường: là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được
thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá thị trường của cổ
phiếu được xác định bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ
phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều yếu tố, do vậy nó thường xuyên biến
động.
b.Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty,

của nhiều nhân tố, và nhân tố quan trọng đó là kết quả kinh doanh của công ty.
Bên cạnh đó, theo quan điểm của những nhà đầu tư, Cổ phiếu có các đặc
điểm sau:
Tính thanh khoản cao
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính
thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
• Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu
niêm yết).
• Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán
Có tính Lưu thông
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu
như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền
mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được
nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
Tính Tư bản giả
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ
phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh
giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu.
Tính Rủi ro cao
5
Tính rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị
cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
Thị trường cổ phiếu là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các cổ phiếu
giữa tổ chức phát hành và người mua chứng khoán, hoặc các cổ đông với nhau,
hoặc giữa cổ đông với người có nhu cầu mua cổ phiếu đó.
3. Những thành tựu đạt được
Trong 10 năm phát triển, thị trường cổ phiếu Việt Nam đã có bước phát
triển khá vượt bậc, đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam thời gian qua. Nhìn chung, thị trường cổ phiếu trong gần 10 năm đã
đạt được một số kết quả sau:

khoản, đến nay đạt 926.000 tài khoản. Vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư
nước ngoài đạt gần 7 tỷ USD.
4. Các mặt hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thị trường cổ phiếu vẫn tồn tại một
số hạn chế sau:
a) Số lượng và chất lượng hạn chế của cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch
Chứng khoán
Hạn chế lớn nhất của thị trường là chưa có một lượng hàng hóa đủ lớn về
quy mô cũng như cơ cấu nếu so sánh 600 mã chứng khoán niêm yết và đăng ký
giao dịch với khoảng 4.000 công ty đại chúng. Sau 10 năm hoạt động, với 600
công ty được niêm yết vào thời điểm hiện tại, quy mô của thị trường cổ phiếu ở
Việt Nam còn nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Nhiều công ty niêm yết
hiện là các công ty quy mô nhỏ với số vốn khoảng vài chục tỷ đồng, chưa đủ
gây ra sức hút đối với các nhà đầu tư.
b) Thiếu vắng sự tham gia tích cực của những nhà đầu tư tổ chức trên thị
trường
Về phía cầu, nhiều nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường Việt Nam là cá nhân
và mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị trường.
Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy động
7
vốn qua thị trường cổ phiếu. Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam cũng như
nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết,
một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng
một phần do những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý.
Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa
đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin, các quy định
chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài, các hạn
chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, v.v.
c) Hoạt động của mua bán cổ phiếu trên thị trường phi chính thức lớn hơn
nhiều lần so với thị trường chính thức và không được kiểm soát thích đáng.

yếu tố kinh tế và yếu tố phi kinh tế:
1. Các yếu tố kinh tế
a) Tăng trưởng kinh tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng thì hầu như các ngành các lĩnh vực đều bị
ảnh hưởng. Và giá của cổ phiếu cũng nằm trong số đó, giá cổ phiếu có xu
hướng tăng khi nền kinh tế tăng trưởng và có xu hướng giảm khi nền kinh tế
kém phát triển. Như các bạn đều biết Việt Nam là một quốc gia có tốc độ phát
triển cao ( 8,3% năm 2006) cộng với nền chính trị ổn định và mức thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là một trong những nguyên nhân khiến thị
trường chứng khoán Việt Nam có bước tiến nhảy vọt nói chung và giá cổ phiếu
tăng nói riêng. Tuy nhiên không phải giá cổ phiếu nào cũng tăng và giá lúc nào
cũng tăng mà nó còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa. Việc giữ vững tốc
độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong nhiều năm liền có tác dụng giữ cho thị
trường chứng khoán ổn định, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư cả trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, để có thể trông chờ vào một sự khởi sắc của thị trường
thì chỉ có thể vào cuối năm khi các nhà đầu tư có thể dự đoán kết quả kinh
doanh của từng doanh nghiệp.
b) Quan hệ cung cầu
9
Trong kinh doanh, quy luật cung cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá
thành sản phẩm, và đầu tư chứng khoán cũng không phải là một ngoại lệ. Giá cổ
phiếu cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu. William J. Oneil – một nhâ đầu
tư chứng khoán thành công tại Mỹ, là cha đẻ của phương pháp phân tích và lựa
chọn cổ phiếu hiệu quả CAN SLIM, cho rằng cổ phiếu của các công ty đại
chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng đáng để
mua, bởi lượng cầu của những cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít
nên giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế của
cổ phiếu cũng như rất khó sinh lợi nhuận lớn.
Chính những cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp trên thị trường mới có
nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các cổ phiếu có số lượng

Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam
và Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ có mặt trên thị trường.
Về phía cầu, giá cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: Ngày
28/12, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại
hối, trong đó quy định: người không cư trú là nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài
khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tín dụng được
phép để thực hiện đầu tư tại Việt Nam và được dùng tài khoản VND này để mua
ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng để chuyển ra nước ngoài. Như vậy, dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài từ năm 2007 sẽ rất thuận lợi vào Việt Nam và cũng
tiềm ẩn khả năng rút vốn ồ ạt chuyển ra nước ngoài khi có một “cú sốc” nào đó
xảy ra. Tuy nhiên, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển
ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
thời gian gần đây là các nhà đầu tư tương đối lớn, nhà đầu tư chiến lược, họ kỳ
vọng vào lợi nhuận lâu dài, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn của nước ngoài
vào Việt Nam chỉ khoảng 1%, không đáng kể.
Do thị trường chứng khoán Việt Nam “bùng nổ” trong năm 2006 nên
nhiều quỹ đầu tư đã và đang đổ hàng tỷ USD đầu tư gián tiếp vào Việt Nam.
Trong năm 2007, chủ yếu là vốn của các quỹ đầu tư, tập đoàn tài chính và ngân
11
hàng lớn với chiến lược đầu tư dài hạn. Nhu cầu của nước ngoài đầu tư vào
chứng khoán Việt Nam không hề giảm độ nóng. Theo HSBC, trên thế giới hiện
có 43 quỹ chuyên đầu tư vào Việt Nam, trong đó có 23 quỹ mới thành lập từ
tháng 11 năm ngoái. Tổng giá trị tài sản ròng (NAV) của tất cả các quỹ đầu tư
vào Việt Nam hiện lên đến 5,6 tỉ đô la Mỹ. Những tháng gần đây, các quỹ đầu
tư vào Việt Nam liên tiếp ra đời ở Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và
Israel. Chỉ riêng tại Hàn Quốc, số tiền mà các quỹ này gọi được đã là 871 triệu
đô la Mỹ (xem bảng). Ông Chy Jang Oak, Chủ tịch bộ phận thị trường chứng
khoán của Korea Exchange, trong chuyến thăm TPHCM tháng 4 vừa qua, cho
TBKTSG biết Việt Nam đang là đề tài nóng của giới đầu tư tài chính Seoul. Họ
đánh giá cao sự tăng trưởng của các công ty niêm yết Việt Nam. Ông Chy Jang

biệt phát huy tác dụng trong thời điểm lượng bán quá ít và giá liên tục khớp
mức trần."Anh ơi bao nhiêu thì mua được"? Đó là câu hỏi rất thường thấy tại
các sàn giao dịch vì phần đông nhà đầu tư mới tham gia rất ít kinh nghiệm, thậm
chí còn chưa đọc thông bảng giao dịch điện tử. Kỹ thuật “rải đinh" tung hoả mù
trên bảng giao dịch đã được nhiều nhà đầu tư lão luyện "bật mí" từ lâu và không
còn là bí mật, thậm chí người nước ngoài cũng học được và sử dụng.
Điểm cân bằng của thị trường sẽ phụ thuộc nhiều vào cung cầu. Cung
hiện ra sao? Nguồn cung đang tăng lên (IPO các doanh nghiệp tầm cỡ), nhưng
điểm rơi của nguồn cung dường như chưa đúng lúc. Hai tháng cuối năm ngoái,
nguồn cung tăng cấp tập với hàng chục công ty lên sàn, nhưng cầu còn tăng
mạnh hơn do khi ấy thị trường đang trên đà đi lên. Bây giờ khi cung được tung
ra ở thời điểm thị trường đang xuống dốc, thì hàng hóa chất lượng tốt vẫn có
nhu cầu, song sẽ đẩy nhanh sự phân hóa cổ phiếu. Nói ngắn gọn là cầu vẫn đang
rình rập chờ, sẵn sàng vào, nhưng không vào với bất cứ giá nào.
c) Hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp
Giá của cổ phiếu hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả hoạt động
kinh doanh hay sức khỏe của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động ổn
13
định mà không gặp phải những biến cố bất ngờ dẫn đến phải thanh lý hay phá
sản thì dòng tiền mà người nắm giữ cổ phiếu nhận được là cổ tức được chia
hàng năm. Con số này có sự dao động và đôi khi cũng có những khoản bất
thường nào đó, nhưng nhìn chung bình quân trong dài hạn nó chính là lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất, giá cổ phiếu do dòng
tiền này và sự biến động của nó quyết định và sự nóng lên của thị trường là do
sự tăng giá của các cổ phiếu gây ra.
Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi
khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng
kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ
phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.

B, thị giá cổ phiếu là 100 USD thì tỷ suất cổ tức là 3 USD/100 USD = 3%. Rõ
ràng đầu tư vào cổ phiếu A sẽ hiệu quả hơn cổ phiếu B. Vì khi bỏ ra 1 USD sẽ
thu được 0,04 USD với cổ phiếu A, nhưng chỉ thu được 0,03 USD với cổ phiếu
B.
Tuy nhiên, những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao chưa hẳn đã là sự lựa
chọn tốt nhất. Giả sử, cổ phiếu A nói trên có cổ tức 2 USD và tỷ suất cổ tức 4%,
tức là cao hơn hẳn tỷ suất trung bình của thị trường (2%). Điều này không có
nghĩa là mua cổ phiếu đó là tốt nhất. Hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu công ty
đó không thực hiện được kế hoạch thu nhập và giá cổ phiếu sụt trong vòng 1
đêm từ 50 USD xuống còn 40 USD một cổ phiếu. Điều đó có nghĩa là giá cổ
phiếu giảm 20% và đẩy tỷ suất cổ tức lên tới 5% (2 USD/40 USD). Liệu bạn có
muốn đầu tư vào một cổ phiếu như vậy chỉ vì tỷ suất cổ tức cao hơn? Có lẽ là
không. Ngay cả những cổ phiếu mang lại nhiều cổ tức, thì bạn cũng phải chắc
chắn là công ty đó không có vấn đề gì về tài chính. Vì thế, yếu tố cổ tức chưa
hẳn đã tác động đến giá cổ phiếu theo tỷ lệ thuận mà còn do ảnh hưởng của các
nhân tố khác.
15
Một chỉ số nữa về cổ tức cũng ảnh hưởng không nhỏ tới giá cổ phiếu, đó
là tỷ lệ trả cổ tức. Khi bạn tìm mua những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao, cần
xem xét tỷ lệ trả cổ tức của công ty. Chỉ số này thể hiện tỷ lệ phần trăm lợi
nhuận được trích ra để trả cho cổ đông dưới hình thức cổ tức. Nếu tỷ lệ này
vượt quá 75% có nghĩa là công ty không tái đầu tư lợi nhuận một cách hợp lý.
Một tỷ lệ trả cổ tức cao thường hàm ý là thu nhập của công ty được sử dụng
phần lớn để trả cho cổ đông và có nghĩa là công ty đang cố gắng thu hút các nhà
đầu tư mua cổ phiếu của mình. Do đó, tỷ lệ này phải ở mức hợp lý mới có thể
thu hút các cổ đông và làm cho giá cổ phiếu đó tăng.
Không phải bất cứ cổ phần nào cũng đem lại cho bạn cổ tức. Nếu một
công ty đang tăng trưởng nhanh có thể làm lợi cho các cổ đông bằng cách tái
đầu tư. Trong trường hợp đó, công ty sẽ không trả cổ tức hoặc trả với tỷ lệ cổ
tức rất thấp. Ví dụ, công ty Microsoft không trả cổ tức nhưng các cổ đông của

giao dịch trên thị trường tăng lên có thể làm tăng số lượng cổ đông của công ty.
Qua đó góp phần làm hạn chế khả năng công ty bị thâu tóm.
Ví dụ, một công ty cổ phần ABC có 1 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh
giá 10.000 đồng/cổ phiếu (tổng giá trị niêm yết là 10 tỷ đồng) và giá thị trường
tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Công ty tiến hành tách cổ phiếu
theo tỷ lệ 1:2 (nghĩa là người sở hữu 1 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 2 cổ phiếu
mới, khi đó tổng số cổ phiếu mới của công ty sẽ là 2 triệu cổ phiếu mệnh giá
5.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị niêm yết vẫn là 10 tỷ đồng nhưng giá thị
trường của cổ phiếu mới sẽ dao động ở mức 50.000 đồng/cổ phiếu. Cho đến
nay, nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu chưa xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Nhưng nhiều nhà đầu tư rất quan tâm đến nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu
của các công ty cổ phần như trường hợp Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn
thông (SACOM) vừa có dự định tách cổ phiếu để nâng cao giá trị công ty. Do
đó, rất có thể trong tương lai gần, giá cổ phiếu của công ty này sẽ tăng sau khi
tách. Như vậy, các tổ chức phát hành vẫn giữ lại được nguồn vốn bên trong để
đầu tư phát triển, đồng thời tăng thêm cổ phiếu cho các cổ đông, nguồn cung
17
cấp cổ phiếu cho thị trường tăng, do đó làm giảm biến động giá cả thị trường,
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.
e) Lãi suất
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi.
Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và
chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm
tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Lãi suất tăng sẽ rất
có khả năng làm giảm giá các loại cổ phiếu trên thị trường. Người mua cổ phiếu
của công ty mới niêm yết thường trông chờ cổ tức thấp thôi. Nhưng đổi lại, họ
mong giá cổ phiếu sẽ tăng trên thị trường chứng khoán.
Để giải thích rõ chiều hưởng ảnh hưởng của lãi suất tới giá cổ phiếu cần phải
xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
♦ Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì

phiếu tăng trưởng nhiều lần so với trước 2001. Cổ phiếu Việt Nam cũng sẽ tăng
trưởng như thế khi mà giá hiện nay chỉ cao hơn vài chục lần đến vài trăm lần
mệnh giá. Giá cổ phiếu sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Chính vì vậy mà nhiều
nhà đầu tư nước ngoài vào đây và họ đánh giá được tiềm năng cũng như sự hấp
dẫn của thị trường này.
Công ty Merri Lynch (một trong những hãng tư vấn đầu tư nổi tiếng của
Mỹ) nói rằng chỉ cần bạn bỏ tiền đầu tư vào cổ phiếu blue-chip ở Việt Nam và
yên tâm 10 năm sau bạn sẽ kiếm được một khoản khá lớn mà không cần phải
làm gì. Công ty bluechip đó sẽ kiếm lời cho bạn. Câu nói này cho thấy đầu tư
vào thị trường chứng khoán Việt Nam siêu lợi nhuận như thế nào. Các nhà đầu
tư nước ngoài dám bỏ tiền ra để đầu tư vào cổ phiếu Việt Nam, lẽ nào người
Việt Nam lại không?
Thêm một lý do nữa để cho rằng bây giờ là thời điểm thích hợp để đầu tư
vào thị trường chứng khoán chính là thuế. Lợi nhuận kiếm được từ việc mua
19
bán cổ phiếu không bị đánh thuế, phải đến 2009 nhà đầu tư mới bị đánh thuế thu
nhập. Đầu tư cổ phiếu vì giá trị gia tăng của cổ phiếu trong tương lai. Các công
ty niêm yết sẽ không được ưu đãi thuế vào năm sau, điều này không quan trọng
lắm. Vấn đề là công ty niêm yết làm ăn như thế nào. Và đều này cũng không
làm ảnh hưởng lớn đến sự hấp dẫn của thị trường, vốn còn rất nhỏ bé nhưng lại
đầy tiềm năng.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả
cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công
ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin
đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin
liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính
sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của
CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
2. Yếu tố phi kinh tế
a) Yếu tố chính trị

lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên
tâm đầu tư lâu dài hay hấp dẫn các nhà đầu tư chuyên nghiệp có nguồn tài chính
lớn cộng với tình trạng rò rỉ thông tin, không công khai, minh bạch. Một số dư
luận còn cho thấy cứ đầu tư theo tâm lý bầy đàn còn chắc ăn hơn đầu tư theo
phân tích. Chính đặc điểm này khiến cho giá chứng khoán Việt Nam biến động
một cách khó lường và không phản ánh xác thực các thông tin trên thị trường
cũng như giá trị thực của nó.
Mặt khác, sự thay đổi về công nghệ, sự khác nhau trong phương thức
giao dịch, hệ thống giao dịch cũng gây ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Gần đây
có hiện tượng một số cổ phiếu khi chuyển sàn lại tăng giá mạnh. Ví dụ cổ phiếu
PPC lúc còn ở sàn Hà Nội chỉ là 65.000 đồng, khi chuyển sang sàn TP.HCM lại
tăng lên 105.000 đồng. Đó chính là do sự khác nhau trong hệ thống giao dịch
21
giữa các sàn. Hệ thống giao dịch ở sàn Hà Nội (khớp lệnh báo giá) đòi hỏi nhà
đầu tư phải biết “định giá đúng”. Do khớp lệnh liên tục nên nếu người chơi
không biết định giá sẽ bị thiệt. Ví dụ thị trường đang định giá cao cổ phiếu đó,
nhưng nếu không biết nên nhà đầu tư bán với giá sàn thì ngay lập tức sẽ có
người mua. Trong khi đó tại sàn TP.HCM (khớp lệnh định kỳ), người bán này
có thể không bị thiệt do hệ thống giao dịch tìm ra mức giá thị trường, mà mức
giá này thường cao hơn mức giá sàn (trừ trường hợp thị trường giảm giá quá
mức). Cách khớp lệnh này đã giúp cho không ít nhà đầu tư lớn “làm giá” cổ
phiếu, tức là tạo ra cung cầu ảo, đẩy giá khớp lệnh lên cao. Hay ngược lại, giờ
đây, khi hệ thống công nghệ thông tin dần đáp ứng được các yêu cầu kĩ thuật
của việc khớp lệnh mới, thị trường thành phố Hồ Chí Minh chuẩn bị chuyển
sang phương thức khớp lệnh liên tục, tức một lệnh được tung ra mà có lệnh đối
ứng sẽ được khớp ngay, nếu các nhà đầu tư vẫn cứ giữ tôn chỉ đầu tư cũ: quyết
mua đặt giá trần, quyết bán đặt giá sàn thì giá chứng khoán chắc chắn sẽ biến
động khôn lường. Đến khi thói quen đầu tư thay đổi, các nhà đầu tư đã quen với
việc suy xét, xử lý, phân tích thông tin thị trường thì phương thức khớp lệnh
liên tục sẽ tránh được tình trạng giá lên cao do cung cầu ảo, từ đó phản ánh

trên thị trường chứng khoán. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược (trong
và ngoài nước) mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nghiệp Việt Nam theo
phương thức thoả thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược với nhau,
để cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị doanh nghiệp
2. Phát triển thị trường cổ phiếu theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về
cấu trúc, được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với
thị trường khu vực và quốc tế
Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát
hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm bảo
khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao
23
dịch tập trung, thị trường OTC, thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường
đảm bảo khả năng liên kết với thị trường các nước trong khu vực; Nghiên cứu
cơ chế giao dịch đối với các cổ phiếu không đủ điều kiện niêm yết theo mô hình
thỏa thuận thông qua các công ty chứng khoán; Các giao dịch tập trung thanh
toán và chuyển giao thông qua Trung tâm lưu ký chứng khoán, đồng thời thiết
lập cơ chế giám sát của Sở giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin,
… để tăng cường tính công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý,
giám sát của Nhà nước đối với các giao dịch, thu hẹp hoạt động trên thị trường
tự do.
3. Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước
Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường. Thực hiện lộ trình mở cửa
đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo
lộ trình đã cam kết; Đa dạng hóa các loại quỹ đầu tư, tạo điều kiện cho phép
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện…. tham gia đầu tư trên thị
trường cổ phiếu; Từng bước phát triển các quỹ hưu trí tư nhân để thu hút các
vốn dân cư tham gia đầu tư; Khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước
ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status