Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp (2) - Pdf 23

Lời nói đầu

ở nớc ta, cũng giống nh các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây thực hiện
mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực
kinh tế Nhà nớc bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho
công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH. Nhng thực tế cho thấy chúng ta đã
đạt đợc kết quả nh mong muốn. Sau chủ trơng đổi mới của Đảng vào năm
1986 nền kinh tế nớc ta đã có sự phát triển đáng kể, đời sống nhân dân đã
đợc nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, tốc độ tăng trởng tăng, và dần dần
đi vào ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đợc chúng ta còn
có những khó khăn cần giải quyết mà trong đó là sự hoạt động kém hiệu
quả của doanh nghiệp Nhà nớc.
Doanh nghiệp Nhà nớc đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhng
trong những năm gần đây trong điều kiện kinh tế thị trờng các doanh
nghiệp Nhà nớc đã bộc lộ nhiều yếu kém và tỏ ra không còn phù hợp nữa.
Để khắc phục vấn đề này Đảng và Nhà nớc đã có chủ trơng cổ phần hóa
(CPH) một bộ phận các doanh nghiệp Nhà nớc. Đây là biện pháp quan
trọng và cần thiết nhằm thu hút thêm nguồn vốn đầu t cho sản xuất, giải
quyết vấn đề sở hữu và việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nớc.
Hiện nay, CPH không còn là vấn đề quá mới mẻ, nhng thành công của
nó mới bắt đầu đợc chuẩn bị. Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam thực trạng và giải pháp
để một lần nữa khẳng định CPH các doanh nghiệp Nhà nớc là một chủ tr-
ơng đúng đắn của Đảng và Nhà nớc.
Trong đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự
giúp đỡ và đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn.

1
I- Những vấn đề về cổ phần hoá.
1. Tính chất tất yếu của cổ phần hoá.
Để hiểu tại sao cổ phần hoá lại mang tính tất yếu trớc hết ta đi xét xem

khi bị phá sản, mở rộng sự tham gia của các cổ đông đặc biệt là ngời lao
động...
Với những đặc điểm đợc trình bày ở trên, công ty cổ phần đã thực sự
đóng vai trò tổ chức trong nền kinh tế theo những yêu cầu của thị trờng.
Điều đó cho phép khẳng định xu hớng phát triển tất yếu của loại hình công
ty cổ phần trong nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam. Điều này là cơ sở cần
thiết để xác lập việc xây dựng các luận cứ khoa học nhằm phân tích và thực
hiện việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nớc sang công ty cổ phần. Hơn
nữa xu hớng phát triển hiện nay của nền kinh tế thế giới nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng đó là giảm bớt mức độ kiểm soát trực tiếp của
Nhà nớc, giành sự điều tiết mạnh cho cơ chế thị trờng. Sự khắc phục những
hiện tợng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả của khu vực
kinh tế Nhà nớc, thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ của Nhà nớc
ngày càng tăng đã buộc thầu hết các Chính phủ có khu vực kinh tế Nhà nớc
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng t bản xã hội đều phải tìm cách giảm bớt
xuống một tỷ trọng nhất định trong nền kinh tế. Đồng thời để đảm bảo tính
cạnh tranh trong cơ chế thị trờng thì phải thực hiện t nhân hoá và cổ phần
hoá. Đối với nớc ta qua hơn 10 năm đổi mới kinh tế theo chủ trơng của
Đảng và Nhà nớc, khu vực kinh tế quốc doanh đã đợc sắp xếp lại một bớc.
Tuy nhiên, số lợng doanh nghiệp Nhà nớc còn quá nhiều, lại phân bố dàn
trải trên nhiều lĩnh vực, đại bộ phận là thiếu vốn do nguồn vốn ngân sách có
hạn. Mặt khác máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp này lại lạc hậu,
không đồng bộ, năng suất lao động thấp... chính vì vậy tiến trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế,
trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nớc mà hạn chế sự can thiệt trực tiếp
của Nhà nớc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu t nhân và sở hữu hỗn hợp, coi
trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trờng. Do đó tiến hành cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một nội
dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan

luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản
xuất trong sự phát triển của xã hội loài ngời. Kinh tế thị trờng với nhiều chủ
sở hữu khác nhau đứng đối diện tơi cời nhng cũng sẵn sàng biến thơng tr-
ờng thành chiến trờng. Đa sở hữu thuộc đa thành phần là quan hệ sản xuất
đang thúc đẩy lực lợng sản xuất hiện nay. Một ngời chủ sở hữu không thể
tự sản xuất rồi tự bán để thành thị trờng đợc. Bên cạnh qui luật trên các qui
4
luật thị trờng đang làm vỡ tung một số DNNN đợc dựng nên mà đáng ra cha
nên có, buộc chúng ta phải nhận thức lại và hành động lại.
- Về chủ quan: Nhà nớc ta không kham nổi, không gánh mãi đợc các
DNNN bằng cách nào đó cho nó sống lay lắt. Gánh nặng bao cấp tín dụng
bao cấp để duy trì những xí nghiệp mà đáng ra không nên có đã bức bách
chúng ta phải CPH nó bằng cách chuyển thể hình thức sở hữu của nó. Cạnh
tranh trong cơ chế thị trờng nó có thể tồn tại và phát triển hoặc phá sản để
Nhà nớc tập trung tiền của vào việc khác xem râ có hiệu quả hơn. Nh vậy
thực chất của quá trình CPH là nhằm giải quyết 4 vấn đề cơ bản:
- Về sở hữu: Nhằm đa dạng hoá quyền sơ hữu và cụ thể hoá chủ sở
hữu.
- Về hoạt động: Nhằm thơng mại hoá mọi hoạt động của doanh nghiệp
chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, cắt bỏ sự can thiệp của Nhà n-
ớc vào hoạt động doanh nghiệp.
- Về quản lý: Pháp luật hoá tổ chức quản lý theo luật công ty đã ban
hành và các luật khác.
- Về hiệu quả: Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đây chính là mục tiêu cuối cùng của giải pháp cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nớc.
Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc đang trở nên phổ biến, đem lại
hiệu quả rõ rệt ở hầu hết các nớc và đang phát triển trên thế giới. Còn ở nớc
ta CPH các doanh nghiệp Nhà nớc là một trong những quan điểm và giải
pháp quan trọng của Đảng và Nhà nớc nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả

nền kinh tế hàng hoá và sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội. Đối với
nớc ta chế độ cổ phần vẫn đảm bảo đi đúng hơng XHCN phục vụ dân giàu,
nớc mạnh xã hội công bằng văn minh. Vì vậy, CPH một bộ phận doanh
nghiệp Nhà nớc là phù hợp với nền kinh tế thị trờng, nhằm giảm gánh nặng
đầu t bao cấp tràn lan kém hiệu quả, tập trung vốn vào các ngành trọng
điểm chiến lợc, phục vụ sản xuất lớn. Do đó có thể kết luận rằng CPH một
bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc là phù hợp với định hớng XHCN với mục
tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nớc
đã vạch ra cho nhu cầu xây dựng nền kinh tế ở nớc ta hiện nay.
3. Mục tiêu của cổ phần hoá.
Cổ phần hoá nếu thực hiện thành công sẽ làm tăng nguồn tài chính,
đồng thời còn trở thành phơng tiện để thay đổi bộ mặt kinh tế vĩ mô và xã
hội. Để đạt đợc điều đó trớc hết phải đặt mục tiêu cho quá trình này. Xuất
phát từ thực chất CPH ở nớc ta (khác hẳn với CPH mà các nớc trên thế giới
đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nớc cho hợp lý và hiệu
6
quả mà ta cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm chung của nền kinh tế quốc
doanh và đặc điểm riêng của từng loại doanh nghiệp Nhà nớc để định ra
mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể để CPH. Và trong từng điều kiện cụ thể
có thể điều chỉnh thứ tự u tiên của các mục tiêu cho phù hợp với yêu cầu và
khả năng thực hiện.
ở nớc ta xuất phát từ đờng lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của
nớc ta trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định
hớng XHCN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/98-NĐ-CP ngày
28/06/1998 thay thế cho Nghị định 28/CP về việc chuyển doanh nghiệp Nhà
nớc thành công ty cổ phần với hai mục tiêu.
Một là: Huy động vốn trong toàn xã hội của cá nhân, các tổ chức kinh
tế xã hội trong nớc và ngoài nớc để đầu t đổi mới công nghệ, tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu

phú. Do đó bên cạnh việc bán cổ phần cho nớc ngoài chúng ta còn đầy
mạnh việc bán cổ phần trong nớc. Việc thu hút vốn đầu t trong dân là rất
quan trọng vừa bổ sung nguồn vốn hoạt động cho các đơn vị kinh tế, đa vốn
nhà rỗi có tính bất động của nhân dân vào vòng quay của cả nền kinh tế để
tiền đẻ ra tiền tăng lợng tiền lu thông, khắc phục tình trạng khan hiếm
tiền mặt giả tạo, đồng thời tạo sức mạnh về vốn cho các đơn vị kinh tế, các
tập đoàn kinh tế trong việc hợp tác và cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế
thế giới.
Hai là: Tạo điều kiện cho những ngời lao động trong doanh nghiệp có
cổ phần và những ngời đã góp vốn đợc làm chủ thực sự; thay đổi phơng
thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả,
tăng tài sản Nhà nớc, nâng cao thu nhập của ngời lao động, góp phần tăng
trởng kinh tế đất nớc. Chúng ta đã trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và
cứ loay hoay mãi mà cha đa lại cho ngời lao động một sự làm chủ thực sự:
Trong khi đó ngời lao động đã giác ngộ ra rằng nếu không làm chủ đợc về
kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa, chỉ là hình thức. Và chỉ khi
có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong hội đồng quan
trị (là cơ quan thay mặt mình để quản lý doanh nghiệp) thì lúc đó ngời lao
động mới có quyền thực sự không bị một sự o ép nào. Nhng khi đó lại nảy
sinh vấn đề khác, đó là quyền làm chủ của mỗi ngời không giống nhau, ng-
ời giàu (mua nhiều cổ phiếu) có quyền hơn ngời nghèo (mua ít cổ phiếu).
Nếu nh theo quan niệm cũ thì đây là điều không thể chấp nhận đợc, là sự
không công bằng, là phi XHCN ... Nhng thực ra cha có một chế độ nào,
thậm chí cả CNXH, có công bằng tuyệt đối. Nhà nớc ta chỉ có thể và cần
phải làm cho một bộ phận dân chúng giàu lên trớc, đồng thời có biện pháp
8
để hạn chế ngời nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa ngơừi giàu và ngời nghèo.
Chỉ có cách đó dân ta mới giàu có lên đợc, nớc ta mới có phồn vinh đợc.
Ngoài hai mục tiêu trên, CPH còn có thể nhằm vào mục tiêu thứba là
tạo mối dây liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có quyền lợi chung

đá quí, xây dựng sân bay, bến cảng, đờng sắt...), các doanh nghiệp cần thiết
cho nhu cầu cho quốc kế dân sinh. Tất cả các doanh nghiệp trên không đợc
CPH trong điều kiện nớc ta hiện nay.
Thứ ba: Các doanh nghiệp đang làm ăn có lãi hay nói cách khác
doanh nghiệp có phơng án kinh doanh hiệu quả. Về vấn đề này đã có rất
nhiều ý kiến khác nhau. Có ngời cho rằng Nhà nớc cần bán những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ chứ sao lại bán những doanh nghiệp đang làm ăn có
lãi.
Thật vậy, chúng ta đều biết rằng, lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá tổng
quát nhất về hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì không phải chỉ có một nguyên nhân nào mà
thờng do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả trình độ quản lý và cơ chế quản lý
của giám đốc, tay nghề của công nhân... khả năng thích nghi đối với thị tr-
ờng của doanh nghiệp vì vậy một doanh nghiệp đã có truyền thống làm ăn
thua lỗ, sẽ gây ấn tợng không tốt đối với các cổ đông, do đó các doanh
nghiệp này rất khó hoặc không thể cổ phần hoá. Theo nh đã phân tích ở trên
về thực chất của CPH, về mục tiêu của CPH và đặc biệt CPH các doanh
nghiệp Nhà nớc hiện nay là tất yếu đối với nền kinh tế thế giới nói chung và
cần thiết và cấp bách đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong giai đoạn
hiện nay. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói là chúng ta không
thực hiện CPH các doanh nghiệp Nhà nớc. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nớc
đang làm ăn thua lỗ không thể bán mà chỉ có doanh nghiệp Nhà nớc đang
làm ăn có lãi mới cầnbán bởi vì cho dù doanh nghiệp Nhà nớc đó lâu nay
làm ăn có lãi đi chăng nữa, thì một lúc nào đó với điều kiện khách quan
biến đổi, doanh nghiệp Nhà nớc khó có thể cứ tiếp tục giữ đợc mức độ đó.
Một doanh nghiệp phát triển phải luôn luôn thích ứng đợc các biến đổi của
xã hội và phù hợp với qui luật khách quan của thị trờng. Và xét và điều kiện
thiết thực của chúng ta hiện nay, doanh nghiệp Nhà nớc nhất thiết phải CPH
để nâng cao đợc hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn nữa. Đồng thời để Nhà
nớc có thể thu hồi vốn nhằm đầu t cho những nhu cầu thiết yếu khác. Từ đó

phơng pháp xử lý phù hợp.
- Giải quyết các văn bản pháp lý về bản đồ địa chính, giấy cấp đất,
giấy phép xây dựng các công trình đã có, diện tích khu vực sản xuất kinh
doanh....
11


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status