đánh giá hiệu quả và tác dụng không mong muốn của acid zoledronic (aclasta) sau 1 năm điều trị loãng xương ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp - Pdf 23

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loãng xương (LX) là một tình trạng rối loạn chuyển hóa của bộ xương,
đặc trưng bởi sự suy giảm sức mạnh của xương và giảm mật độ xương, khiến
xương trở nên giòn và dễ gãy. Loãng xương được chia làm 2 loại: LX nguyên
phát và LX thứ phát: LX nguyên phát là tình trạng LX tìm thấy căn nguyên như
tuổi cao và LX ở phụ nữ mạn kinh. Loãng xương thứ phát là thể LX tìm thấy
nguyên nhân do một số bệnh hoặc do điều trị một số thuốc gây nên. Hiện nay
Chứng loãng xương có xu hướng gia tăng ảnh hưởng nhiều đến khả năng vận
động, sức khỏe, lao động và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Hậu quả
nghiêm trọng nhất của loãng xương là các biến chứng gãy cổ xương đùi, gẫy lún
đốt sống, gây tàn phế, giảm tuổi thọ, ảnh hưởng lớn đến kinh tế của quốc gia.
Loãng xương chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: tuổi, giới, hormon,
chế độ sinh hoạt, luyện tập, chiều cao, cân nặng của mỗi cá thể, một số thuốc,
một số bệnh mãn tính, trong đó có bệnh viêm khớp dạng thấp.
Ở nước ta, tỉ lệ bệnh nhân mắc bệnh viêm khớp dạng thấp khoảng 0,5%
dân số và chiếm tới 20% tổng số bệnh nhân bị bệnh xương khớp nằm điều trị
nội trú tại các bệnh viện, bệnh thường gặp ở nữ nhiều gấp 4 đến 5 lần so với
nam giới. Do bệnh diễn biến mãn tính, tiến triển nặng dần làm giảm khả năng
lao động, bên cạnh đó, người bệnh còn điều trị bằng corticoid kéo dài nên ảnh
hưởng rất nhiều đến chất lượng xương. Việc đánh giá mật độ xương ở bệnh
nhân viêm khớp dạng thấp được phát hiện và điều trị sớm tình trạng
loãng xương nhằn hạn chế các biến chứng của tình trạng loãng xương
Điều trị loãng xương nhằm phòng tránh các biến chứng gẫy xương,
trong đó các thuốc chống loãng xương cần sử dụng lâu dài. Nhóm
bisphosphonate là sự lựa chọn đầu tiên trong điều trị bệnh LX với cơ chế ức
chế các hủy cốt bào, giảm quá trình hủy xương. Trong nhóm thuốc này, các
2
thuốc sử dụng đường uống như Alendronate đã được chứng minh về hiệu quả
và tính an toàn song có một vài hạn chế như chống chỉ định với các bệnh nhân
có hội chứng trào ngược dạ dày, bệnh nhân không ngồi được ít nhất 30 phút

nghiên cứu của Bordier và Meunier đưa ra định nghĩa: LX là sự giảm toàn bộ
khối lượng xương . Năm 2001 tổ chức y tế thế giới (WHO) đã thống nhất đưa
ra định nghĩa LX như sau: LX được đặc trưng bởi sự thay đổi sức mạnh của
xương. Sức mạnh này được đặc trưng bởi mật độ xương và chất lượng của
xương. Chất lượng xương được đánh giá bởi các thông số: cấu trúc của
xương, chu chuyển xương, độ khoáng hóa, tổn thương tích lũy, tính chất của
các chất cơ bản của xương .
Theo WHO 1994, LX được định nghĩa dựa trên mật độ chất khoáng của
xương (BMD - Bone Mineral Density) theo chỉ số T- score: T- score của một cá
thể là chỉ số mật độ xương (BMD) của cá thể đó so với BMD của nhóm người
trẻ tuổi làm chứng.
1.1.2 Phân loại loãng xương
Theo nguyên nhân, LX được chia làm hai loại là: LX nguyên phát và
LX thứ phát.
1.1.2.1 Loãng xương nguyên phát
LX nguyên phát là loại LX không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài
tuổi tác và/hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ. Nguyên nhân do quá trình lão
4
hóa của tạo cốt bào, làm xuất hiện tình trạng mất cân bằng giữa hủy và tạo
xương, gây nên thiểu sản xương.
LX nguyên phát được chia làm hai loại:
+ LX type I (hoặc sau mãn kinh): nguyên nhân là do sự giảm estrogen.
Loại này thường gặp ở phụ nữ khoảng từ 50 đến 60 tuổi, đã mãn kinh. Tổn
thương chủ yếu là mất chất khoáng ở xương xốp (xương bè), biểu hiện bằng
sự lún các đốt sống hoặc gãy xương Pouteau-Colles. LX nhóm này thường
xuất hiện sau mãn kinh từ 5 đến 15 năm. Nguyên nhân của LX type I, ngoài
sự thiếu estrogen ra, còn có sự giảm tiết hormon cận giáp trạng, tăng thải calci
qua nước tiểu, suy giảm hoạt động enzym 25-OH-Vitamin D1α hydroxylase.
+ LX type II (hoặc LX tuổi già): liên quan tuổi và sự mất cân bằng tạo
xương. Loại này cả ở nam và nữ trên 70 tuổi. Mất chất khoáng toàn thể cả

mãn kinh gây nên tình trạng LX.
1.1.3.2. Chu chuyển xương bình thường.
Nguyền chích dẫn
6
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới mật độ xương.
- Tuổi: tuổi càng cao mật độ xương càng giảm. Ở người già có sự mất
cân bằng giữa tạo xương và hủy xương. Chức năng của tạo cốt bào bị suy
giảm là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất xương ở tuổi già. Một nguyên
nhân thứ hai dẫn tới sự mất xương ở người già là sự suy giảm hấp thu Calci ở
ruột và sự giảm tái hấp thu calci ở ống thận. Tham gia vào quá trình hấp thu
calci ở ruột có vai trò của 1-25 dihydroxy cholecalciferon (tiền chất của 1-25
hydroxy cholecalciferon) trong máu cũng giảm do chế độ dinh dưỡng, do
giảm tiếp xúc với ánh sáng mặt trời .
- Estrogen: năm 1940 Albright là người đầu tiên đã tìm thấy được mối
liên hệ giữa LX và giảm chức năng của buồng trứng ở phụ nữ. Sau đó nhiều
kết quả nghiên cứu đã khẳng định kết luận của Albright. Mặc dù mất xương là
hiện tượng sinh lý xuất hiện sau tuổi 40 ở cả hai giới, song rõ ràng tốc độ mất
xương ở cả nam và nữ là hoàn toàn khác nhau. Ở tuổi 70 có tới 50% phụ nữ
sau mãn kinh có biểu hiện mất xương trong khi ở nam giới chỉ có 25% có
biểu hiện mất xương ở độ tuổi 80 . Sự mất xương ở nữ xuất hiện sớm hơn từ
15-20 năm so với nam giới là hậu quả của sự suy giảm chức năng buồng
trứng một cách nhanh chóng .
- Yếu tố dinh dưỡng: dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của
bộ xương. Chế độ ăn không đầy đủ calci sẽ ảnh hưởng đến sự đạt được đỉnh
cao của khối xương và sự mất xương sau này. Một nghiên cứu được tiến hành
trên 200 phụ nữ Trung Quốc 57 tuổi và được bổ sung 2 ly sữa giàu calci mỗi
ngày, kết quả cho thấy ở nhóm nghiên cứu uống sữa có tốc độ mất xương
chậm hơn rõ rệt so với nhóm không uống sữa .
- Yếu tố cân nặng: ở những phụ nữ nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh
hơn và tần suất gãy cổ xương đùi và xẹp đốt sống do LX cao hơn . Ngược lại

đốt sống ban đầu bị xẹp nặng thêm.
- Trường hợp đã có biến dạng cột sống: biểu hiện thông thường hơn của
LX là đau lưng mạn tính, âm ỉ, kéo dài, với kiểu đau cơ học, rất khó xác định
thời điểm đầu tiên xuất hiện triệu chứng. Đau lưng mạn tính là hậu quả của rối
loạn tư thế cột sống. Dần dần bệnh nhân gặp nhiều đợt đau mới trên nền đau cột
sống mạn tính. Và theo thời gian, bệnh nhân sẽ xuất hiện sự giảm chiều cao, gù
đoạn lưng, có thể tới mức các xương sườn cuối cùng cọ sát vào xương chậu.
- Gãy xương: nhiều trường hợp phát hiện LX khi bệnh nhân đã có biến
chứng gãy xương, thường xuất hiện khi có chấn thương rất nhẹ. Các vị trí gãy
xương thường gặp là: đầu trên xương đùi, xương cánh tay, đầu dưới xương
cẳng tay, xương sườn, xương chậu và xương cùng.
1.1.6 Chẩn đoán loãng xương:
Trên thực tế lâm sàng, việc chẩn đoán tình trạng LX có thể dựa vào mật
độ xương BMD (Tiêu chuẩn vàng) .
1.1.7 Điều trị loãng xương
1.1.7.1. Mục đích điều trị loãng xương
- Phòng ngừa gãy xương, tái gãy xương.
- Giữ ổn định và tăng cường khối lượng, sức mạnh của xương, ngăn
ngừa tình trạng mất chất khoáng trong xương.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Giảm tử vong do gãy xương loãng xương gây nên.
1.1.7.2. Các biện pháp điều trị không dùng thuốc
- Tập thể thao, hoạt động thể lực rất quan trọng đối với việc củng cố chất
lượng bộ xương.
- Cần đảm bảo chế độ ăn giàu calci trong suốt cuộc đời. Nếu cần thiết thì
bổ sung calci – vitamin D dưới dạng thuốc, tránh sử dụng thuốc lá và rượu.
9
- Bệnh nhân đã có nguy cơ loãng xương thì phải tránh ngã.
- Khi có biến dạng cột sống cần đeo thắt lưng cố định cột sống.
- Tránh lạm dụng những thuốc gây tình trạng loãng xương.

Bệnh VKDT đã được biết từ lâu nhưng gần đây mới có sự thống nhất về
tên gọi, tiêu chuẩn chẩn đoán và cơ chế bệnh sinh. Năm 1819, Brondie mô tả
VKDT với đặc điểm tiến triển chậm, ảnh hưởng tới nhiều khớp và cả các gân,
dây chằng . Năm 1896, Bannatyne lần đầu tiên mô tả đặc điểm hình ảnh X
quang các khớp trong VKDT, sau này Steinbrocker mô tả chi tiết hơn. Năm
1909, Nichols và Rchardson đã phân biệt viêm khớp tăng sinh với viêm khớp
do thoái hóa khớp. Sự phát hiện yếu tố dạng thấp bắt đầu từ giả thiết của
Billings năm 1912 coi bệnh VKDT là do đáp ứng của cơ thể với những tình
trạng nhiễm trùng tại chỗ mạn tính. Năm 1940, Waaler và sau đó năm 1947
Rose đã chứng minh giả thiết này khi phát hiện ra yếu tố dạng thấp bằng phản
ứng ngưng kết hồng cầu cừu . Năm 1958, Hội thấp khớp Mỹ đề ra tiêu chuẩn
chẩn đoán bệnh VKDT (ACR 1958: American Collegue of Rheumatology)
gồm 11 tiêu chuẩn dựa vào lâm sàng, hình ảnh X quang, mô bệnh học của
màng hoạt dịch, yếu tố miễn dịch trong huyết thanh. Đến năm 1987, hội này
đã hoàn thiện tiêu chuẩn chẩn đoán trên, cải tiến lại và đưa ra 7 tiêu chuẩn
(ARC 1987) mà ngày nay được ứng dụng rộng rãi . Điều hạn chế nhất của
tiêu chuẩn này là không thể áp dụng đối với thể một khớp.
11
- Dịch tễ bệnh: VKDT gặp ở mọi nơi trên thế giới, chiếm khoảng 1% dân
số , , , . Theo nghiên cứu của tổ chức kiểm tra sức khỏe quốc gia Mỹ
(USNHES- United State National Health Examination Survey) (1960-1962)
tỷ lệ mắc VKDT là 0,3% ở người lớn dưới 35 tuổi và hơn 10% ở người lớn
trên 65 tuổi. Ở Việt Nam tỷ lệ mắc là 0,5% trong nhân dân và 20% số bệnh
nhân mắc bệnh khớp điều trị tại bệnh viện . Trong một nghiên cứu về tình
hình bệnh tật ở khoa Cơ Xương Khớp bệnh viện Bạch Mai từ 1991-2000,
bệnh VKDT chiếm tỉ lệ 21,94% trong các bệnh khớp, trong đó chủ yếu là nữ
giới (92,3%), tuổi trung bình 49,2 và lứa tuổi chiếm đa số là từ 36-65 (72,6%)
. Có thể nói VKDT là bệnh của phụ nữ tuổi trung niên vì 70-80% là nữ và 60-
70% có tuổi lớn hơn 30 . Bệnh có tính chất gia đình trong một số trường hợp ,
.

thời gian cứng khớp có thể kéo dài một đến vài giờ. Diễn biến: các khớp
viêm tiến triển nặng dần, phát triển thêm các khớp khác. Sau nhiều đợt viêm
tiến triển, các khớp dần bị dính và biến dạng.
+ Triệu chứng toàn thân và ngoài khớp.
Toàn thân: gầy sút, mệt mỏi, ăn ngủ kém, da xanh.
Hạt dưới da: được coi như dấu hiệu đặc hiệu. Tổn thương cơ, gân, dây
chằng, bao khớp. Tổn thương nội tạng ít gặp và thường xuất hiện trong các
đợt tiến triển của bệnh (tràn dịch màng phổi, màng tim).
- Triệu chứng xét nghiệm.
+ Xét nghiệm chung biểu hiện phản ứng viêm: tốc độ máu lắng tăng,
protein C phản Các xét nghiệm miễn dịch: ứng (CRP- C reaction protein)
tăng, điện di protein: γ globulin tăng, tỉ lệ A/G đảo ngược.
13
+ Phát hiện yếu tố dạng thấp (RF- Rheumatoid Factor) bằng phản ứng
Waaler- Rose hoặc latex. Gần đây có thể định lượng được nồng độ RF.
Anti CCP được xác định bằng kỹ thuật hấp thụ miễn dịch liên kết enzym.
Các xét nghiệm khác ít sử dụng: điện di miễn dịch, định lượng bổ thể
giảm, tế bào Hagraves, kháng thể kháng nhân.
+ Các xét nghiệm dịch khớp:
Hội chứng viêm: dịch khớp tăng khối lượng, màu vàng nhạt, giảm độ
nhớt, lượng muxin giảm rõ rệt (test Muxin dương tính), số lượng bạch cầu
trong dịch khớp tăng cao (có thể tới 15.000- 30.000/mm
3
), chủ yếu là bạch
cầu đa nhân trung tính.
Hội chứng miễn dịch: có tế bào hình nho (Ragocytes) ≥ 10% . Yếu tố dạng
thấp trong dịch khớp dương tính với tỷ lệ cao và sớm hơn trong huyết thanh.
- Sinh thiết màng hoạt dịch: Thâm nhiễm tế bào viêm lan tỏa, tăng sinh
mạch máu tân tạo, hoại tử dạng tơ huyết, tăng sinh hình lông màng hoạt dịch, quá
sản lớp tế bào phủ hình lông, thâm nhiễm tế bào viêm thành nang, tăng sinh xơ.

- Phòng ngừa hủy khớp, bảo vệ chức năng khớp, giảm thiểu tối đa các
triệu chứng để bệnh nhân có thể có cuộc sống bình thường.
- Tránh các biến chứng của bệnh và các thuốc điều trị.
1.2.5.2. Các phương pháp điều trị
-Điều trị không dùng thuốc: giáo dục sức khỏe, chế độ tập luyện, dinh
dưỡng, vận động liệu pháp, vật lý trị liệu. Y học cổ truyền và nước suối khoáng.
- Điều trị triệu chứng: các thuốc chống viêm steroid hoặc không steroid, các
thuốc giảm đau (chỉ định theo bậc thang giảm đau của Tổ chức Y tế thế giới).
- Điều trị cơ bản bằng các thuốc chống thấp khớp có thể thay đổi cơ địa
(DMARDs: Disease Modifying Anti Rheumatic Drugs), đơn độc hoặc phối hợp:
15
methotrexat, cloroquin, Salazopyrin
- Các phương pháp điều trị mới theo cơ chế bệnh sinh bằng các chế
phẩm sinh học: ức chế tế bào B, ức chế tế bào T, ức chế các cytokin (ức chế
IL-6, ức chế yếu tố hoại tử u TNF
α
).
- Điều trị ngoại khoa: nội soi khớp can thiệp, cắt bỏ màng hoạt dịch
khớp, thay khớp nhân tạo
1.3. Mối liên quan giữa bệnh viêm khớp dạng thấp và loãng xương
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mật độ xương ở bệnh nhân mắc bệnh
VKDT như: bệnh nhân nữ ở tuổi trung niên, sự thay đổi nội tiết liên quan đến
tình trạng mãn kinh, ảnh hưởng của các yếu tố gây viêm, sự giảm hoạt động
do tình trạng bệnh, do sử dụng thuốc điều trị (đặc biệt là glucocorticoids), ,
tình trạng dinh dưỡng và sự giảm trọng lượng cơ thể do bệnh .
* Người ta cho rằng mất xương trong bệnh VKDT là do tăng nồng độ của
các chất gây viêm (pro- inflammatory cytokines) dẫn đến tăng quá trình hủy
xương. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, giảm mật độ xương ở bệnh nhân
VKDT có liên quan đến sự ra tăng nồng độ của các chất chuyển hóa xương như:
PICP (procollagen type I C- terminal propeptide), PINP (procollagen type I N-

- Trên thế giới từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu đi sâu tìm hiểu
về mật độ xương của bệnh nhân VKDT. Cortet và cộng sự nghiên cứu các yếu
tố ảnh hưởng lên sự mất xương ở bệnh nhân VKDT đã kết luận rằng: sự mất
xương ở bệnh nhân VKDT đặc biệt ở cổ xương đùi là do sự gia tăng tốc độ
chuyển hóa luân hoàn của xương.
- Urbanek và cộng sự cho biết tỉ lệ LX ở bệnh nhân VKDT liên quan đến
thời gian mắc bệnh và giai đoạn bệnh theo phân loại bệnh của Steinbrocker.
- Theo Toyoda và cộng sự, sự mất xương ở bệnh nhân VKDT không
17
những do Glucocorticoid mà còn do ảnh hưởng của các yếu tố gây viêm, sự tàn
phế, tình trạng mất xương do mãn kinh và cường cận giáp trạng thứ phát .
- Ở Việt Nam, trong những năm gần đây do đời sống xã hội và kinh tế
ngày một nâng cao, bệnh loãng xương cũng được nhiều tác giả quan tâm.
+ Trần Ngọc Ân đã quan tâm nhiều đến LX thứ phát trong một số bệnh
lý , trong một nghiên cứu trên những bệnh nhân Kaler tác giả nhấn mạnh tình
trạng LX và lún các đốt sống là một trong những biểu hiện lâm sàng sớm và
chủ yếu của bệnh .
+ Nguyễn Thị Nga đã nghiên cứu trên 234 bệnh nhân có mật độ xương
cột sống thắt lưng và cổ xương đùi mắc bệnh khớp có sử dụng Glucocorticoid
so với nhóm chứng: tại cột sống, tỷ lệ LX là 64,4% so với 28,9%. Tại cổ
xương đùi, tỷ lệ này là 59,3% so với 13,2% ở nhóm chứng. Nhận thấy nhóm
bệnh nhân dung GC có nguy cơ bị LX cao hơn 4,44 lần so với nhóm chứng
(tại vị trí cột sống); cao hơn 9,62 lần (tại vị trí cổ xương đùi) .
+ Nguyễn Văn Quí và cộng sự đã nghiên cứu trên 81 bệnh nhân viêm
khớp dạng thấp có độ tuổi từ 21 đến 79, nhận thấy nhóm tuổi trung bình là
51,3± 12 tuổi, có tỉ lệ loãng xương: 44,44%, giảm mật độ xương: 34,57% và
không loãng xương: 20,99% .
1.5. Acid zoledronic trong điều trị loãng xương
1.5.1. Công thức hóa học, đặc tính sinh học, cơ chế tác dụng
1.5.1.1. Công thức hóa học:,

nghiệm dài ngày trên chuột cống và khỉ cho thấy đáp ứng điển hình của
xương với thuốc chống tiêu xương qua sự giảm hoạt tính của hủy cốt bào phụ
thuộc liều dùng và tần suất hoạt hóa các vị trí tu sửa mới bộ xương ở cả
xương bó và xương Havers. Đã quan sát thấy có sự tiếp tục tu sửa bộ xương ở
các mẫu xương của tất cả động vật được điều trị với liều acid zoledronic với
liều dùng trong lâm sàng. Chưa thấy bằng chứng về giảm khoáng hóa xương,
sai lạc về tích lũy dạng xương và chưa thấy dạng xương kết dính ở các động
vật dùng thuốc , .
19
1.5.1.3. Cơ chế tác dụng
Cơ chế tác dụng của thuốc trên khung xương. Đích tác dụng chung của
các bisphosphonat là các hủy cốt bào. Các thuốc này gắn kết chặt chẽ lên bề
mặt khoáng hóa và được thực bào bởi các hủy cốt bào trong quá trình tiêu
xương. Kết quả là các hủy cốt bào bị mất chức năng và chết theo chương
trình. Bisphosphonat làm giảm số lượng hủy cốt bào hoạt động; ức chế sự gắn
hủy cốt bào vào bè xương (do mất bờ bàn chải); kìm hãm hoạt tính của hủy
cốt bào đang hoạt động do làm ức chế sản xuất men tiêu thể, gây cảm ứng cho
hiện tượng chết theo chương trình của hủy cốt bào.
Ngoài ra các biphosphonat còn gián tiếp kích hoạt các tế bào tạo xương.
Các thuốc này cho phép ngăn cản quá trình tiêu xương, tức là làm giảm mất
xương, và khi làm tăng khoáng hóa xương thì làm tăng độ bền của xương.
Bằng sự lấp đầy khoang tạo xương, quá trình kháng hóa thứ phát được cải
thiện và tỷ lệ chu chuyển xương giảm xuống.
Biphosphonat là nhóm chất có cấu trúc đặc biệt gắn kết với chất khoáng
xương, rồi phóng thích rất chậm, làm giảm tập trung và hoạt động của các tế
bào hủy xương (hủy cốt bào), ức chế sự gắn hủy cốt bào vào bè xương, ngăn
cản quá trình tiêu xương. Ngoài ra, biphosphonat cũng có tác dụng gián tiếp
kích hoạt các tạo cốt bào làm tăng khoáng hóa xương, tăng độ bền của xương
làm cho xương cứng có sức chịu lực lớn, sau khi ngừng thuốc khá lâu vẫn duy
trì được hiệu quả .

- Cách dùng: Aclasta (5 mg trong 100 mL có sẵn cho dung dịch truyền)
được dùng đường tĩnh mạch qua một dây truyền mở lỗ thông với tốc độ
truyền hằng định. Thời gian truyền không được dưới 15 phút.
21
1.5.5: Các tác dụng không mong muốn
Cũng như các bisphosphonate dùng đường tĩnh mạch, Aclasta thường
liên quan nhiều nhất với các triệu chứng sau đây khi dùng thuốc :
+ Sốt (18,1%)
+ Đau cơ (9,4%)
+ Triệu chứng giống cúm (7,8%)
+ Đau khớp (6,8%)
+ Nhức đầu (6,5%)
Đa số triệu chứng trên xảy ra trong vòng 3 ngày đầu sau khi sử dụng
Aclasta. Đa số các triệu chứng này về bản chất từ nhẹ đến trung bình và qua
khỏi trong vòng 3 ngày khởi phát triệu chứng. Tỷ lệ các triệu chứng này giảm
rõ rệt khi dùng Aclasta liều kế tiếp.
Tỷ lệ các triệu chứng sau khi dùng thuốc xảy ra trong vòng 3 ngày đầu
sau khi dùng Aclasta có thể giảm khoảng 50% khi dùng paracetamol hoặc
ibuprofen sớm sau khi dùng Aclasta.
+Rối loạn chức năng thận
+ Hạ calci huyết thanh
+ Phản ứng tại chỗ: sưng, đỏ, đau
+ Hoại tử xương hàm: hiếm gặp, có thể gặp ở bệnh nhân ung thư
được điều trị bằng bisphosphonate kéo dài, liều cao.
+ Rung nhĩ
+ Đau cơ xương
Thỉnh thoảng đã có báo cáo về đau xương, khớp và/hoặc cơ dữ dội và đôi
khi mất chức năng ở bệnh nhân dùng bisphosphonate, bao gồm cả Aclasta.
+ Hoại tử xương hàm
Hoại tử xương hàm (ONJ): Đã có báo cáo về hoại tử xương hàm, chủ

23
- Nguyễn Văn Lâm năm 2012 đã đánh giá đáp ứng của hiệu quả liệu phát
acid zolendronic (Aclasta 5mg) truyền tĩnh mạch mỗi năm mỗi lần trong điều
trị loãng xương ở phụ nữ mạn kinh tại khoa khớp Bệnh Viện Bạch Mai ở 65
bệnh nhân cho thấy thuốc có hiệu quả cải thiện mật độ xương tốt ở 100%
bệnh nhân nghiên cứu sau 1 năm điều trị, thuốc không có tác dụng không
mong muốn trầm trọng và việc điều trị Zoledronic acid (Aclasta) cho thấy
thuốc có tính ưu việt hơn các Biphotphonat khác trong việc thuận tuân thủ
điều trị .
1.6.2. Các nghiên cứu sử dụng acid zoledronic ở nước ngoài
- Năm 2007, Theo Dennis MB, Delmas PD, Eastell R, et al trong
nghiên cứu (HORIZON-PFT) trên 7736 phụ nữ thì hiệu quả và độ an toàn
của Aclasta đã được chứng minh trong ở nhiều quốc gia .
+Aclasta làm giảm đáng kể tỷ lệ gãy mới một hoặc nhiều đốt sống tại
thời điểm sau 1 năm, 3 năm dùng thuốc: 1 năm (58%), 2 năm (68%) và 3 năm
(67%) (p < 0,0001). Aclasta làm giảm đáng kể nguy cơ của ít nhất một gãy
mới đốt sống trung bình hoặc nặng vào thời điểm 1 năm (60%), 2 năm (71%)
và 3 năm (70%) (p < 0,0001). Đặc biệt đối với những bệnh nhân từ 75 tuổi trở
lên, bệnh nhân dùng Aclasta giảm 61% nguy cơ gãy đốt sống so với bệnh
nhân dùng giả dược (p < 0,0001).
+Aclasta làm giảm 40% nguy cơ gãy xương hông sau 3 năm. Tỷ lệ biến
cố gãy xương hông là 1,45% ở bệnh nhân được điều trị bằng Aclasta so với
2,5% bệnh nhân được điều trị bằng giả dược
+ Nhóm dùng Aclasta cho thấy ít giảm chiều cao hơn so với nhóm dùng
giả dược trong 3 năm theo dõi (4,2 mm ở nhóm dùng Aclasta so với 6,7mm ở
nhóm dùng giả dược (p < 0,0001)
+ Aclasta làm giảm đáng kể số ngày bị hạn chế hoạt động và số ngày bất
động tại giường do gãy xương so với giả dược (p < 0,01).
24
- Năm (2007), theo Lyles KW, et al. N Engl J Med trong nghiên cứu

xương quay so với điều trị bằng giả dược ở tất cả thời điểm nghiên cứu
(6 tháng, 12 tháng, 24 tháng và 36 tháng). Điều trị bằng Aclasta dẫn đến tăng
6,9% mật độ chất khoáng của xương ở xương sống thắt lưng, 6% ở toàn bộ
xương hông, 5% ở cổ xương đùi và 3,2% ở đầu xa xương quay sau 3 năm so
với điều trị bằng giả dược.

Trích đoạn Bảng 3.13. Vị trí lún xẹp đốt sống thắt lưng Bảng 3.14. Mật độ xương (g/cm2) tại CSTL sau 1 năm điều trị Aclasta
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status