đánh giá hiệu quả và tác dụng không mong muốn của phương pháp giảm đau sau mổ do bệnh nhân tự kiểm soát (pca) với một số thuốc giảm đau khác nhau - Pdf 24

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau nói chung và đau cấp tính sau phẫu thuật nói riêng là một trong những
vấn đề lớn của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Đau gây ra cảm giác khó chịu,
thậm chí là lo lắng sợ hãi cho bệnh nhân và gia đình, ảnh hưởng nhiều đến
sinh hoạt, tâm lý, đời sống xã hội cũng như quá trình phục hồi của người
bệnh. Mặt khác, đau còn gây ra hàng loạt các rối loạn tại các hệ thống cơ quan
khác nhau như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, nội tiết, miễn dịch… làm chậm
quỏ trình hồi phục sau phẫu thuật. Ở giai đoạn sớm sau mổ đau có thể dẫn đến
các biến chứng nguy hiểm như tăng huyết áp, loạn nhịp tim, thiếu máu cơ tim,
xẹp phổi, suy hô hấp, giảm vận động, thuyên tắc mạch và có thể dẫn đến tử
vong. Đặc biệt, đau cấp tính sau mổ nếu không được quan tâm, điều trị hiệu
quả có thể trở thành đau mạn tính, bệnh nhân phải chịu đựng đau đớn dai
dẳng, kéo ngay cả khi thương tổn ban đầu đã được giải quyết hoàn toàn.
Tổ chức Y tế thế giới coi việc điều trị đau là quyền con người (human
right), trong khi ở nhiều trung tâm đau được xem xét như là dấu hiệu sinh tồn
thứ năm (fifth vital sign). Để bệnh nhân phải chịu đựng đau đớn trong quá
trình nằm viện là điều không thể chấp nhận cả ở khía cạnh lâm sàng (chuyên
môn) cũng như đạo đức. Chính vì vậy cùng với nhiều chuyên khoa khác, việc
điều trị đau nói chung, đặc biệt là đau sau mổ có vai trò hết sức quan trọng
trong thực hành thường qui của người làm gây mê hồi sức, giúp người bệnh
phục hồi sớm chức năng của các cơ quan, cho phép vận động sớm, trỏnh cỏc
biến chứng, tạo cảm giác thoải mái và yên tâm cho người bệnh mỗi khi đến
bệnh viện. Tuy nhiên trên thế giới, chống đau sau mổ còn là một vấn đề lớn
của y học với nhiều thách thức. Hiện nay ngay ở các nước có nền y học phát
triển vẫn có tới 31-39 % bệnh nhân phải chịu đựng đau nhiều hoặc rất đau sau
1
phẫu thuật. Tại Việt Nam có khoảng 59% bệnh nhân sau mổ cần được điều trị
chống đau, tuy nhiên điều này chỉ mới thực hiện được ở một số ít bệnh viện lớn.
Bên cạnh các biện pháp giảm đau truyền thống như sử dụng các thuốc
chống viêm giảm đau non-steroid, các opioid đường dưới da, tiêm bắp hoặc
tĩnh mạch ngắt quóng…việc áp dụng các biện pháp giảm đau tiên tiến như đặt

các thuốc morphine, fentanyl, meperidine và morphine kết hợp
cùng ketamine.
2. Đánh giá các tác dụng không mong muốn của PCA khi dựng cỏc
thuốc trên
3. Bước đầu đưa ra những khuyến cáo (hoặc protocol) về sử dụng các
opioid khác nhau cho PCA.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐỊNH NGHĨA ĐAU
Hiệp hội nghiên cứu chống đau quốc tế (IASP) định nghĩa “đau là một
cảm nhận thuộc về giác quan và xúc cảm do tổn thương đang tồn tại hoặc
tiềm tàng ở cỏc mụ gây nên và phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tổn
thương ấy”.
Về mặt lâm sàng “ đau là những gì bệnh nhân trải qua, cảm thấy và cho
rằng đó là đau”, vì vậy đay là dấu hiệu có tính chất chủ quan, khó lượng giá
một cách chính xác.
1.2. SINH LÝ CỦA ĐAU
1.2.1. Mục đích của cảm giác đau.
Đau là một cơ chế bảo vệ của cơ thể. Cảm giác đau xuất hiện tại một vị
trí nào đó khi bị tổn thương, nó tạo nên một đáp ứng nhằm loại trừ tác nhân
gây đau. Hầu như tất cả các bệnh đều có triệu chứng đau. Khả năng chẩn đoán
bệnh thường phụ thuộc nhiều vào kiến thức về đau của các thầy thuốc.
1.2.2. Phân loại cảm giác đau.
Đau được phân thành ba loại chủ yếu: Đau nhói (prcking pain), đau rát
(burning). Và đau nội tạng (aching pain - đau quặn quại.
- Đau nhói (đau chói, đau như kim châm, dao cắt): Là cảm giác đau khi
có kim châm vào da hoặc khi bị dao cắt vào da. Camt giác này xuất hiện khi
một vùng da rộng bị kích thích tấy mạnh.
- Đau rát (đau như phải bỏng): Là cảm giác đau khi da bị bỏng cháy, gây

Các tác nhân cơ học, nhiệt, hoá học đều có khả năng kích thích vào các
bộ phận nhận cảm giác đau.
- Một số bộ phận nhận cảm chỉ chịu kích thích của các tác nhân cơ học
đó là các bộ phận nhận cảm giác đau nhậy cảm với kích thích cơ học
(mechano sensitive pain receptor).
- Một số khác lai chỉ nhận cảm giác với những tác nhân kích thích như
nóng, lạnh do là các bộ phận nhận cảm giác đau nhậy cảm với kích thích nhiệt
(thermo senssitive pain receptor).
- Một số khác nữa lại chỉ nhậy cảm với các tác nhân hoá học đó là các
bộ phận nhận cảm hoá học (chemo sensitive pain receptor). Những chất
thường tác động vào các bộ phận nhận cảm hoá học của cảm giác đau là
bradykinin, serotonin, histamin, ion potassium, acid, prostaglandin,
acetylcholin, các men phân giải protein.
Mặc dù có một số bộ phận nhận cảm giác đau chỉ nhậy cảm với một
loại tác nhân nhưng nhìn chung hầu hết các bộ phận nhận cảm này thường
nhậy cảm với trên một loại tác nhân gây kích thích.
* Bản chất không thích nghi của các bộ phận nhận cảm về cảm giác đau:
Khác với các bộ phận nhận các cảm giác khỏc, cỏc bộ phận cảm giác
đau hầu như không có hiện thượng thích nghi với các kích thích. Dưới những
điều kiện nào đó, khi các kích thích đau kích thích liên tục vào các bộ phận
nhận cảm giác đau, các bộ phận nhận cảm giác này ngày càng được hoạt hoá,
do đó ngưỡng đau ngày càng giảm và người ta gọi hiện tượng đó là hiện
tượng "tăng cảm giác đau" (hyperalgesia). Tầm quan trọng của tính không
thích nghi của các bộ phận nhận cảm giác đau là kiên trì thông báo cho trung
tâm biết những tổn thương gây cảm giác đau đang tồn tại.
Đường dẫn truyền cảm giác đau về hệ thống thần kinh trung ương.
6
* Đường dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại biên về tuỷ sống:
Tín hiện đau được truyền từ ngoại biên về tuỷ sống nhờ sợi thần kinh
cảm giác Aδ truyền với tốc độ 6 - 30 m/giõy và sợi thần kinh cảm giác C với

có vai trò nhận biết cảm giác đau. Nói như vậy không có nghĩa là vỏ não
không có vai trò trong nhận thức cảm giác đau vì khi kích thích điện vào vùng
này gây cảm giác đau nhẹ, từ đó người ta cho rằng vỏ não đóng vai trò quan
trọng trong nhận thức mức độ đau.
Chất P là một peptid có 11 acid amin được tìm thấy ở nhiều vựng nóo
và tuỷ sống, nồng độ cao nhất ở não giữa, hypothalamus và liềm đen.
Chất P ở quanh cống sylvius có liên quan đến khả năng nhận thức cảm
giác đau.
Chất P ở tủy sống có tác dụng kích thích các tận cùng của neuron ở lớp
V tạo điều kiện thuận lợi cho việc dẫn truyền cảm giác đau theo bó Tuỷ - Đồi
thị- Vỏ não.
Sự xác định vị trí đau trong cơ thể có lẽ do sự kích thích đồng thời các
bộ phận nhận cảm xúc giác đi cùng với kích thích đau. Giới hạn xác định vị
trí đau tuỳ thuộc loại cảm giác đau.
Kích thích đau tác động vào sợi A5 gây đau chói được xác định giới
hạn vị trí trong khoảng 10 - 20cm quanh vùng bị kích thích, trong khi đó cảm
giác đau rất hay đau sâu truyền qua sợi cảm giác C thường lan toả trên một
vùng rộng. Điều này chứng tỏ sợi cảm giác C tận cùng một cách phân tán ở
vỏ não sau và đồi thị.
8
* Đáp ứng với cảm giác đau của cơ thể
Tín hiệu đau được truyền đến tuỷ sống, đồi thị và các trung tâm dưới vỏ
khác, đến vỏ não gây ra một số phản ứng như phản ứng vận động, phản ứng
tâm lý và kích thích hệ thống giảm đau của cơ thể hoạt động.
- Phản ứng vận động
Tín hiệu đau truyền đến tuỷ sống gây phản xạ "rút lại" (withdrawal
reflexes) để làm cho cơ thể hoặc một phần cơ t hể thoát khỏi tác nhân kích
thích gây đau. Những phản xạ tuỷ có tính bản năng này rất quan trọng đối với
động vật cấp thấp nhưng trên người thường bị kìm nén lại nhờ hoạt động của
hệ thần kinh cấp cao.

Như vậy hệ thống giảm đau có thể ngăn cản sự dẫn truyền tín hiệu đau ngay
từ nơi tín hiệu đau vừa được truyền đến tuỷ sống.
Hệ thần kinh giảm đau cũng có thể ức chế dẫn truyền cảm giác đau ở
các chặng khác trong đường truyền cảm giác đau như ở cỏc nhõn của thể lưới
thuộc thõn nóo và nhân lá trong của đồi thị.
Điều quan trọng nhất là hệ thống giảm đau có khả năng ức chế cả hai
loại cảm giác đau đó là cảm giác đau chói (đau nhanh) và cảm giác đau rát,
đau quằn quại (đau chậm).
Các chất sinh học tham gia trong hệ thống giảm đau:
Hơn hai mươi năm trước đây người ta đã thí nghiệm tiêm morphin vào
vùng quanh não thất ngay gần não thất III thuộc não trung gian và thấy có tác
dụng giảm đau rất mạnh. Sau đó người ta đã xác định được tại cỏc vựng của
nóo cú cỏc receptor của opiate.
Những nghiên cứu tiếp theo cho thấy morphin có tác dụng ở nhiều
chặng của hệ thống giảm đau như thể Raphe, sừng sau tuỷ sống.
10
Vì hầu hết các thuốc làm thay đổi tính hưng phấn cua neuron đều gắn
với các receptor tại synap nên người ta cho rằng các receptor tiếp nhận
morphin chính là các receptor tiếp nhận các chất truyền đạt thần kinh giống
morphin được bài tiết một cách tự nhiên ở cỏc vựng của não (sau này được
gọi là các morphin nội sinh).
Ít nhất có 9 chất giống opiate đã được tìm thấy ở nhiều vùng của hệ
thống thần kinh. Đồng thời người ta cũng đã chứng minh được sự có mặt của
các receptor tiếp nhận opiate ở hệ thần kinh trung ương đặc biệt ở cỏc vựng
của hệ thống giảm đau trong não và tuỷ.
Các opiate quan trọng nhất là:
β - edorphin, met - enkephalin, leu - enkephalin và dynorphin.
- Enkephalin (ENK): ENK có tác dụng giảm đau chủ yếu là met - ENK
và leu - ENK. Cả hai đều là peptid có 5 acid amin, được tách từ phân tử tiền
chát là proopiomelano cortin (POMC).

- Serotonin: Serotonin được tổng hợp từ một acid amin là tryptophan.
Nó được bài tiết ở các tận cùng thần kinh của các neuron bắt nguồn từ thể
Raphe và tận cùng ở sừng sau tuỷ sống. Tác dụng của serotonin là kích thích
các neuron tại tuỷ sống bài tiết ENK và gây ra ức chế trước synap trong
đường dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại biên về trung ương. Nó có tác dụng
ức chế cả sợi C và sợi Aδ ở sừng sau tuỷ.
Tóm lại, mặc dù các chi tiết cụ thể về hệ thống opiate của não vẫn còn
chưa được hiểu rõ nhưng có nhiều băng chứng cho thấy khi hệ thống giảm
đau được hoạt hoá bởi các tín hiệu thần kinh truyền đến vùng chất xám quanh
cống hoặc bởi các loại thuốc giống morphin thì có thể làm giảm đau hoàn
12
toàn hoặc hầu như hoàn toàn nhiều tín hiệu đau được truyền về từ hệ thống
thần kinh ngoại biên.
* Các nguyên nhân gây đau
• Tổn thương mô:
- Các tác nhân cơ học, nhiệt độ gây tổn thương mô sẽ kích thích vào các
bộ phận nhận cảm cảm giác đau nhạy cảm với tác nhân cơ học và nhiệt học và
gây cảm giác đau. Nhiệt độ giới hạn gây cảm giác đau cho người là 45
0
C, ở nhiệt
độ này người ta bắt đầu cũng thấy có những tổn thương mô. Vì vậy đau do nhiệt
gây ra có liên quan chặt chẽ với khả năng gây thương tổn mô của nhiệt.
- Tiờm các dịch chiết từ cỏc mụ bị tổn thương vào dưới da sẽ gây đau
dữ dội. Các chất thường được tìm thấy trong dịch chiết từ cỏc mụ tổn thương
là: Bradykinin, histamin, prostaglandin, acid, ion K
+
, serotonin, men phân giải
protid. Các chất trên kích thích vào các bộ phận nhận cảm giác đau nhậy cảm
với tác nhân hoá học và làm giảm ngưỡng kích thích của các bộ phận nhận
cảm này.

vựng…). So với những cách dùng opioid thông thường (tiêm tĩnh mạch, tiêm
bắp, tiêm dưới da) giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát mang lại hiệu quả
giảm đau tốt hơn, thỏa mãn bệnh nhân cao hơn trong khi không làm tăng các
tác dụng phụ liên quan đến opioids.
2.6.1. Yêu cầu về mặt phương tiện
Bơm tiêm điện
Dụng cụ PCA dùng một lần
2.6.2. Thuốc giảm đau và các thuốc khỏc dựng qua PCA
14
2.6.3. Cài đặt các thông số PCA – Một số khái niệm chung
Liều tấn công (loading dose)
Là liều thuốc (giảm đau) cần thiết ban đầu để đạt được tác dụng giảm đau,
thường thay đổi rất lớn giữa các bệnh nhân khác nhau, tuy nhiên thường tương
quan với tổng liều thuốc giảm đau tiêu thụ sau đó của bệnh nhân. Do đó, liều tấn
công được sử dụng và điểm đau trong 30 phút đầu sau khi dùng thuốc có giá trị
tiên lượng (dự đoán) hiệu quả kiểm soát đau của mỗi bệnh nhân.
Liều bổ xung (bolus)
Còn gọi là liều bolus, là lượng thuốc giảm đau mà máy PCA sử dụng
mỗi khi bệnh nhân ấn nút yêu cầu. Liều dùng này ảnh hưởng đến thành công
của phương pháp giảm đau; nếu quá nhỏ sẽ không đủ giảm đau, quá lớn sẽ
làm tăng các tác dụng không mong muốn của thuốc. Do đó liều bolus tối ưu
cần đạt được giảm đau thỏa mãn, trong khi khụng gõy quá nhiều tác dụng
phụ. Với Morphine liều bolus tối ưu thường là 1 mg, tuy nhiên trong trường
hợp liều này không đủ (quá nhỏ so với bệnh nhân) bệnh nhân có thể tự điều
chỉnh một phần bằng cách tăng số lần ấn nút yêu cầu. Liều bolus có thể cần
phải điều chỉnh cho phù hợp với điểm đau sau đó của bệnh nhân. Người ta
thấy rằng thay đổi nhanh nồng độ morphine trong máu liên quan đến phân bố
liều bulus PCA có thể làm tăng tỉ lệ nôn và buồn nôn, nhưng kéo dài thời gian
phân bố liều này cũng không làm giảm tỉ lệ các tác dụng phụ đó.
Thời gian liều ( dose duration); là thời gian để phân bố lượng thuốc đã cài

chế này sẽ cải thiện mức độ an toàn của PCA.
2.6.4. Các yêu cầu để thực hiện an toàn PCA
- Chọn lựa bệnh nhân phù hợp
- Nhân viên y tế và điều dưỡng được đào tạo
16
PCA là một biện pháp kiểm soát đau tốt, nhưng kết quả phụ thuộc vào
hiểu biết của người thực hiện về thuật kỹ này. Do đó chỉ nên áp dụng PCA
khi nhân viên y tế và điều dưỡng đã được đào tạo. Hiểu biết không hoàn
chỉnh về PCA, về các thuốc và liều sử dụng, về nhu cầu theo dõi và xử trí các
vấn đề thường gặp có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện biến chứng hoặc không
đạt được mức độ giảm đau tối ưu
- Các y lệnh chuẩn
Y lệnh điều trị không dùng thuốc
Theo dõi và ghi chép
Ghi y lệnh PCA
Ghi y lệnh xử trí các tác dụng phụ
2.6.5. Xử trí khi PCA không hiệu quả
Thất bại để đạt được giảm đau đầy đủ có thể do nhiều nguyên nhân ;
dùng không đủ liều tấn công ban đầu, chọn lựa bệnh nhân không phù hợp,
xuất hiện các tác dụng không mong muốn của opioid hoặc cài đặt PCA không
hợp lí (hiệu quả).
Không đủ liều tấn công
Không đủ liều bolus
Yêu cầu thành công hoặc không thành công
Tác dụng phụ
2.6.6. Chọn lựa các opioid
PCA đường tĩnh mạch đã được áp dụng thành công với tất cả các
opioids hay sử dụng, trong đó morphine là thuốc được nghiên cứu nhiều nhất.
Cho dù chọn lựa opioid nào thì hiểu biết về dược lí của thuốc đó là điều kiện
tiên quyết để cài đặt các thông số liều lượng của PCA.

nhân suy thận)
18
2.6.8. Ưu và nhược điểm của PCA
Các lợi ích của PCA tĩnh mạch
Các tổng kết dựa trên bằng chứng cho thấy, so với dùng đường tiêm
tĩnh mạch ngắt quãng, PCA tĩnh mạch đạt được hiệu quả giảm đau tốt hơn
(mặc dù chỉ 5mm trên thước đánh giá đau 100mm), với mức độ thỏa mãn
bệnh nhân cao hơn. Tuy nhiên không có sự khác biệt về mức độ tiêu thụ và
các tác dụng phụ liên quan đến opioid. Các nghiên cứu xác định ảnh hưởng
trái ngược nhau của PCA tĩnh mạch lên hệ hô hấp. Chưa có bằng chứng cho
thấy lợi ích về mặt giá thành-hiệu quả cũng như thời gian nằm viện.
Các hạn chế của PCA đường tĩnh mạch
Mặc dù đạt được hiệu quả giảm đau ưu việt hơn so với tiêm opioid ngắt
quãng, bệnh nhân vẫn trải qua không ít các rắc rối liên quan đến tác dụng phụ
không mong muốn của opioid (buồn nôn, nôn, ngứa, an thần và lẫn lộn).
Ngay cả khi đạt được mức độ an toàn có thể chấp nhận vẫn xảy ra những rủi
ro đe dọa tính mạng. Hơn nữa không có bằng chứng về giảm tai biến phiền
nạn cũng như tử vong khi dùng phương pháp giảm đau này. Hiệu quả giảm
đau của PCA tĩnh mạch rõ ràng là kém hơn so với giảm đau NMC và gây tê
thân kinh ngoại vi ở hầu hết các phẫu thuật có mức độ gây đau nhiều. Một
phiền toái của PCA tĩnh mạch là có thể hạn chế vận động của bệnh nhân.
Một nghiên cứu cho thấy 1,2% các trường hợp dùng PCA gặp những
rắc rối nhất đinh, trong số đó; 52% là do lỗi vận hành, 36% là lỗi của phương
tiện và 12% liên quan đến các tác dụng phụ của thuốc. Các lỗi vận hành
(operator errors) gồm lỗi của chương trình, các vấn đề liên quan đến cài đặt
(set up) thông số PCA, chọn bệnh nhân không thích hợp hoặc các lỗi liên
quan đến bệnh nhân.
Tử vong liên quan đến PCA cực kỳ hiếm gặp, chủ yếu liên quan đến
dùng quá liều thuốc có thể do lỗi của chương trình hoặc hỏng hóc bơm tiêm,
tuy nhiên cần chú y yếu tố thuận lợi hay gặp là giảm khối lượng tuần hoàn.

dụng nhằm giảm thiểu hiện tượng này, nhiều thuốc chống nôn được trộn cựng
20
thuục giảm đau như; promethazine, cyclizine, droperidol, ondansetron và
granisetron. Trong số đó chỉ duy nhất droperidol cho thấy hiệu quả chống nôn
khi dựng cựng giảm đau PCA với liều tối ưu là 0,05 mg droperidol/ 1mg
morphine. Tuy nhiên thực hành này cũng không phổ biến, chỉ có khoảng 30%
bệnh nhân đạt được mục đích điều trị.
- An thần; là hiện tượng thường gặp ở giai đoạn sau mổ không chỉ do
sử dụng PCA, mặc dù vậy an thần quá mức liên quan đến kỹ thuật giảm đau
này có thể là chỉ điểm báo hiệu tình trạng suy hô hấp. Tại châu Âu mức độ an
thần được đánh giá thường qui ở 80% các dịch vụ làm giảm đau cấp. Một
tổng kết cho thấy trạng thái an thần quá mức gặp ở 5% bệnh nhân dùng PCA.
Ngoài ra một số ảnh hưởng tâm thần khác liên quan đến PCA là; ác mộng, ảo
giác và những cơn hoảng sợ nhưng rất hiếm gặp.
- Ngứa; là tác dụng phụ tương đối hay gặp, với tỉ lệ khoảng 14% bệnh
nhân sử dụng PCA. Mức độ ngứa thường thay đổi, đôi khi rất khó điều trị
bằng những thuốc thông thường (như kháng histamine). Một số thuốc đối
kháng opioid như naloxone, naltrexone, nalbuphine và droperidol có hiệu quả
trong việc ngăn ngừa hiện tượng ngứa.
- Bí tiểu; tồn tại những bằng chứng trái ngược nhau về ảnh hưởng của
PCA lên hiện tượng bí tiểu. Một tổng kết xác nhận tỉ lệ bí tiểu ở bệnh nhân
dùng PCA cao gấp 6 lần so với đường dùng opioid tiêm bắp, tuy nhiên kết
quả của …lại cho thấy tỉ lệ bí tiểu là tương đương nhau giữa hai biện pháp
giảm đau này.
- Chức năng ruột; ảnh hưởng của PCA lên chức năng ruột cũng có
nhiều trái ngược. Số lượng các nghiên cứu ngang nhau cho thấy PCA làm
tăng hiện tượng liệt ruột kéo dài sau mổ cũng như không có khác biệt về hiện
tượng này. Mặc dù vậy PCA làm giảm hiện tượng đau do căng khí có xu
hướng kéo dài thời gian hồi phục nhu động ruột sau phẫu thuật ở bụng.
21

- Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, ngẫu nhiên và có đối chứng
- Địa điểm tiến hành nghiên cứu; khoa gây mê hồi sức (phòng mổ tiêu
hóa, gan mật, phòng hồi tỉnh), khoa ngoại (phẫu thuật tiêu hóa, gan
mật) bệnh viện Đại học Y và bệnh viện Việt Đức.
- Thời gian nghiên cứu dự kiến từ năm 2009 đến năm 2011
- Ước tính cỡ mẫu;
- Phương tiện, thuốc men và nhân lực tham gia nghiên cứu;
+ Phương tiện;
 Thước đánh giá mức độ đau (VAS) theo thang điểm 10
 Máy theo dõi (monitor) các thông số; mạch, huyết áp, nhịp thở
và bão hòa ụxy (SpO
2
). Nhà sản xuất ….
 Bơm tiêm điện có cài đặt phần mềm PCA của hóng….
 Các phương tiện, máy móc cấp cứu về tuần hoàn và hô hấp như
thường qui.
+ Các thuốc dùng trong nghiên cứu (lập bảng; tên thuốc, hàm lượng, và
nhà sản xuất)
 Morphine
 Fentanyl
 Meperidine
 Sufentanil
 Ketamine
 Các thuốc mê, giãn cơ và giảm đau khác
23
+ Nhân lực tham gia nghiên cứu; gồm các bác sĩ gây mê có kinh
nghiệm, đồng y tham gia nghiên cứu và có hiểu biết đầy đủ về PCA. Việc
theo dõi tại phòng hồi tỉnh cũng như phòng bệnh do bác sĩ và y tá đã được
đào tạo phụ trách
2.2.2. Tiến hành nghiên cứu

Các thuốc được pha với nồng độ như sau
- Morphine; 20 mg/20ml (pha 2 ống thành 20 ml)
- Fentanyl;
- Meperidine;
- Morphine + ketamine; tỉ lệ 1:1
* Các thông số thu thập (qua theo dõi và đánh giá)
1. Đặc điểm chung của bệnh nhân; tuổi, giới, cân nặng, chiều cao, trình độ
học vấn (nghề nghiệp), ASA, tiền sử về hút thuốc lá, say tàu xe, nôn và buồn
nôn sau mổ, trạng thái tinh thần trước mổ
2. Các thông số liên quan đến phẫu thuật;
- Loại phẫu thuật (bệnh cần phẫu thuật), đường mổ
- Thời gian phẫu thuật, thời gian gây mê (tính bằng phút)
- Lượng thuốc giảm đau (fentanyl) tiêu thụ trong mổ (mg)
- Tiờu thụ các thuốc mê, thuốc giãn cơ
3. Các thông số liên quan đến đau
- Điểm VAS ngay sau rút NKQ (trước khi chuẩn độ morphine nếu có)
- Lượng và số lần tiêm morphine chuẩn độ để đạt được VAS < 4
- Tổng liều thuốc giảm đau tiêu thụ trong 6, 12, 24, 48 giờ sau khi lắp PCA
- Số lần bấm máy PCA và số lần bấm được đáp ứng sau 24, 48 giờ lắp PCA
25

Trích đoạn Các chỉ số liên quan đến tác dụng không mong muốn Các vấn đề liên quan đến tác dụng không mong muốn
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status