Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2005 - Pdf 23

1
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Những thay
đổi đó, một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nước đang trên đà phát
triển có thể nắm bắt vươn tới nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội, mặt khác đang đặt ra những thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà
mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát
triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của
khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế
giới. Hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên
của mỗi quốc gia. Để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới, Việt
nam cần phải có các chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với khả
năng của mình. Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu là một chiến lược của
toàn bộ nền kinh tế, của toàn xã hội.
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội đến năm 2005 và các năm tiếp theo. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII đã khẳng định và nhất quán thực hiện “Chiến lược tăng trưởng dựa
vào xuất khẩu”.
Đã có nhiều bài viết về vấn đề này, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến
một khía cạnh khác nhau, chưa nêu lên được toàn cảnh trong quá trình thực
hiện. Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề, em lựa chọn đề tài: “Chiến lược tăng
trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2005”.
Trong bài viết, em xin trình bày các nội dung:
• Chương I: Tổng quan chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
• Chương II: Chính sách trong chiến lược thúc đẩy xuất khẩu.
• Chương III: Tình hình xuất khẩu của Việt nam trong thời gian qua.
• Chương IV: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh chiến
lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt nam.
Trong quá trình nghiên cứu, do kiến thức hiểu biết còn hạn chế, nên trong
bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong được sự đóng góp của

hợp giữa cách tiến tuần tự nhảy vọt từ thủ công lên cơ khí tự động hoá gắn liền
với nó là chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công - nông nghiệp - dịch vụ.
Đây là chiến lược truyền thống về công nghiệp hoá.
Thứ hai, vào những năm 50 của thế kỷ này, một số nước đang phát triển,
sau khi giành được độc lập dân tộc đã áp dụng chiến lược công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu. Về cơ bản, chiến lược này dựa vào độc lập dân tộc, muốn xây
dựng một nền công nghiệp dân tộc bằng cách tự tạo cho mình một nền khoa học
công nghệ trên cơ sở đóng cửa, bảo hộ sản xuất trong nước, nhằm sản xuất ra
hàng hoá tiêu dùng trước đây vẫn phải nhập khẩu.
3
Thứ ba, thông qua con đường nhập khẩu ngay từ đầu để tranh thủ những
tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới dựa vào lợi thế so sánh của đất
nước nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó tiến hành hiện đại hoá đất
nước. Cách đi này gọi là công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu.
Đối với cách đi thứ nhất, đã có nhiều công trình nghiên cứu và đã có
nhiều kết luận khá rõ ràng. Trong khi đó, cách đi thứ hai và thứ ba đối với nước
ta và các nước đang phát triển nói chung còn nhiều vấn đề cần phải được tổng
kết và làm sáng tỏ.
Ở nước ta, khi xác định những quan diểm lớn về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã
khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so
sánh của đất nước cũng như từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực trong từng
thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị
trường khu vực và thị trường quốc tế”. Chính vì vậy, vấn đề công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu đang là vấn đề
bức xúc.
2. Xu hướng trong chiến lược thương mại của các nước.
Trong chiến lược thương mại của các nước có ba mô hình phát triển
thương mại quốc tế. Một là chiến lược phát triển sản phẩm sơ chế; hai là chiến

vệ nền công nghiệp, các nhà sản xuất non trẻ trong nước có điều kiện phát triển.
Song kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy: nếu chúng ta dừng lại
quá lâu ở giai đoạn chiến lược thay thế nhập khẩu sẽ vấp phải những trở ngại
lớn.
Chiến lược sản xuất hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu thực chất nhằm
vào thoả mãn nhu cầu trong nước là chính, chú trọng nhiều đến tự cấp của thị
trường nội địa. Với chiến lược như vậy, ngoại thương không được coi trọng, coi
nhẹ mặt tích cực của kinh tế thế giới đối với sự phát triển kinh tế trong nước.
Điều này sẽ hạn chế khai thác tiềm năng của đất nước trong việc phát triển
ngoại thương. Kinh tế các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp
hoá là nền kinh tế thiếu thốn đủ thứ như: vốn ít, tổng cầu vượt quá tổng cung,
thường thông qua nhập khẩu để cân bằng xu thế này và không thể khắc phục
được ngay trong thời gian ngắn. Nếu chúng ta hạn chế quá mức việc nhập khẩu,
thực hiện chính sách bảo hộ không thích hợp sẽ làm giảm tốc độ phát triển kinh
tế. Cán cân thương mại ngày càng thiếu hụt, nạn thiếu ngoại tệ là trở ngại cho
việc phát triển. Thực hiện thay thế nhập khẩu tuy tiết kiệm được ngoại tệ trên
phương diện thành phẩm nhưng lại đòi hỏi nhập khẩu nhiều nguyên liệu và bán
thành phẩm hơn để tăng cường cung ứng cho sản xuất trong nước, đồng thời sản
xuất thay thế nhập khẩu còn hạn chế việc phát triển các ngành sản xuất hàng
xuất khẩu và sản phẩm thu ngoại tệ. Do đó, không phải là chiến lược lâu dài để
bù vào chỗ thiếu hụt cán cân thương mại.
Thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu nói chung được bảo hộ
bằng thuế quan, tăng cường các biện pháp hành chính... Điều này làm cho các
doanh nghiệp không năng động, thiếu cơ hội tìm kiếm ưu thế cạnh tranh quốc
tế, tìm kiếm mở rộng thị trường, tiếp cận vốn...
Bản thân chiến lược thay thế nhập khẩu không thể đưa tới mức độ mong
muốn về công nghiệp hoá. Thực tế này đã được các nước công nghiệp hoá nhỏ
hơn nhận biết nhanh chóng và đã chuyển sang chiến lược định hướng xuất khẩu.
Singapore là một minh hoạ cho sự sớm chuyển biến đó.
2.2. Chiến lược hướng về xuất khẩu.

s
và các nước ASEAN đã nhanh chóng trở thành các “con
rồng” chính là nhờ thực hiện thành công chiến lược hướng về xuất khẩu. Tuy
nhiên quá trình thực hiện chiến lược này không phải ở các nước đều như nhau
mà thường được vận dụng phù hợp với những nét đặc thù của mỗi nước. Có
nước thực hiện chiến lược “hướng về xuất khẩu” gắn bó hoàn toàn với thị
trường bên ngoài. Có nước kết hợp giữa hướng vào xuất khẩu với việc củng cố
thị trường nội địa... Thực tế cho thấy nếu nền kinh tế “mở cửa” nhưng phụ thuộc
hoàn toàn vào thị trường quốc tế sẽ dẫn đến mất ổn định kinh tế trong nước.
Trong điều kiện thế giới diễn ra cạnh tranh gay gắt, chính sách “mở cửa” phù
hợp là mở cả hai hướng: thị trường thế giới và thị trường nội địa.
6
3. Việt nam thực hiện chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu là một tất yếu.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII đã chủ trương: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh mẽ về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.
Hơn nữa, kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong điều kiện hiện đại, muốn
tăng trưởng nhanh, lâu bền, ổn định, cần tạo ra một động lực mạnh là tăng
trưởng xuất khẩu. Các nước Đông Nam Á sở dĩ vượt hẳn nhiều nước khác có
cùng điểm xuất phát là do họ theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu
trong nhiều năm liên tục. Nhưng ta phải thấy rằng chiến lược tăng trưởng xuất
khẩu được thực thi ở đây là tăng trưởng xuất khẩu hàng chế tạo.
Những điều nói trên, gợi ý quan trọng về nguyên tắc lựa chọn chiến lược
mô hình công nghiệp hoá cho quốc gia đi sau. Tuy nhiên không nên quên rằng
so với thời đại của các “con rồng” trước đây, điều kiện phát triển hiện nay của
những nước đi sau như nước ta, đặc biệt là trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều
biến đổi sâu sắc. Đó chính là những lý do để khẳng định tính đúng đắn của việc
lựa chọn chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Đảng và nhà nước ta.
Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu mang tính quy luật và tính quy

việc hướng tới xuất khẩu các sản phẩm này là một tất yếu.
Ngoài những tất yếu trên của việc chuyển sang chiến lược hướng về xuất
khẩu, còn một tất yếu quan trọng khác nữa đó là do vai trò quan trọng của xuất
khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt nam đã có nhiều biến đổi sâu
sắc trên tầm vĩ mô và vi mô. Đó là do sự thay đổi chính sách của Đảng và nhà
nước ta, chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và
quản lý cuả nhà nước. Cùng với việc thực hiện chính sách mở cửa thì việc buôn
bán giữa các quốc gia ngày càng phát triển. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta rất coi
trọng hoạt động kinh tế đối ngoại và đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Để hoạt
động xuất khẩu đạt hiệu quả thì sản xuất trong nước phải sản xuất ra những sản
phẩm mà thế giới cần và thông qua đó vạch ra được những kế hoạch định hướng
phát triển phù hợp với yêu cầu chung của các nước trên thế giới. Có như vậy
Việt nam mới có thể sánh vai với các nước trong khu vực và các nước trên thế
giới. Vì vậy hoạt động xuất khẩu là hoạt động rất cần thiết. Xuất khẩu để đảm
bảo kim ngạch nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Mặt khác, xuất khẩu khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối, tương đối của
đất nước và kích thích các ngành kinh tế phát triển góp phần tăng tích luỹ vốn,
mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện từng bước đời sống
nhân dân. Bởi vì nếu không có ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu thì nền
sản xuất trong nước gặp rất nhiều khó khăn, điều đó thể hiện rõ ở chỗ nếu
không có ngoại tệ thì không có khả năng nhập máy móc thiết bị, nguyên liệu
phục vụ cho sản xuất.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các nước có nguồn dự trữ ngoại tệ lớn như
Nhật Bản, Đài Loan, Singapore... đều là những nước có tỉ trọng xuất khẩu lớn
trên thế giới. Như vậy việc dự trữ ngoại tệ là rất cần thiết, đặc biệt là đối với
Việt nam hiện nay nguồn vốn trong nước còn hạn chế, trình độ phát triển chưa

Không những thế, việc xuất khẩu còn cho phép mở rộng quy mô sản xuất và từ
đó nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, gây phản ứng dây
chuyền giúp các ngành kinh tế khác phát triển, kết quả là tăng tổng sản phẩm xã
hội và giúp cho nền kinh tế phát triển nhanh.
Chẳng hạn việc sản xuất gạo phát triển thì không những ngành trồng lúa
thực hiện việc mở rộng diện tích đất canh tác, tăng vụ để tăng sản lượng gạo để
xuất khẩu mà các ngành khác như dệt bao đay để đựng gạo, ngành say sát, chăn
nuôi... phát triển theo.
Ngoài ra, vai trò của xuất khẩu còn được thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu
ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tương đối của đất
nước. Trên thực tế cho thấy, bất cứ một quốc gia nào trên thế giới không bao
giờ tìm cách sản xuất tất cả các chủng loại hàng hoá trong khi khả năng và điều
kiện có hạn. Chính vì vậy mà nguyên tắc “lợi thế so sánh” được áp dụng vào
mọi nền sản xuất nhất là đối với những nước công nghiệp hoá.
Ở Việt nam chúng ta có rất nhiều tiềm năng để phát triển các mặt hàng
xuất khẩu, đó là lực lượng lao động dồi dào có trình độ văn hoá. Kết hợp với
nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú, thị trường rộng lớn, vị trí địa lý thuận
9
lợi cho việc phát triển kinh tế. Nhưng hiện nay Việt nam vẫn là một nước nghèo,
thiếu vốn, kỹ thuật, thiếu nguyên vật liệu và vật tư, thiếu thị trường tiêu thụ, kết
cấu hạ tầng yếu kém... Do vậy hoạt động xuất khẩu của Việt nam chưa phát
triển mạnh mẽ, do đó chúng ta cần phải khai thác triệt để lợi thế để mang lại
hiệu quả tốt hơn.
Cùng với những vai trò trên, hoạt động xuất khẩu còn cho phép tập trung
năng lực sản xuất cho những mặt hàng truyền thống được thị trường thế giới ưa
chuộng hay những mặt hàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn trong
nước hay các nước khác không làm được hoặc làm được nhưng giá thành cao
hơn. Thực tế cho thấy mấy năm gần đây những mặt hàng may mặc, thủ công mỹ
nghệ, gốm sứ, mây tre... vốn có truyền thống nay đã xuất khẩu được khối lượng
đáng kể và cũng đã chiếm lĩnh được thị trường khu vực và thế giới.

cho việc giao lưu buôn bán giữa các nước. Mặt khác về vận tải hàng không, tuy
chúng ta không có nhiều sân bay, nhưng chúng ta có sân bay Tân Sơn Nhất nằm
ở vị trí lý tưởng cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng như Băng
Cốc (Thái Lan), Gia-các-ta (Indonexia), Manila (Philippin). Thông qua đó cho
phép chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu.
Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta
cũng là một trong những nguồn tiềm năng góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu. Với diện tích đất đai cả nước khoảng 360360 km
2
trong đó có
tới 50% đất dùng vào nông nghiệp và ngư nghiệp, thêm vào đó là khí hậu nhiệt
đới gió mùa, mưa nắng điều hoà cho phép chúng ta phát triển các mặt hàng
nông sản và lâm sản xuất khẩu có hiệu quả kinh tế cao như gạo, cao su và nông
sản nhiệt đới. Nước ta lại có hệ thống sông ngòi dày đặc giúp cho việc phát triển
hệ thống giao thông đường thuỷ tạo điều kiện phát huy thế mạnh cho việc vận
chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta với các nước trên thế giới được dễ
dàng hơn, thuận lợi hơn và chi phí thấp hơn so với các phương tiện khác.
Về nguồn nhân lực, dân số Việt nam là một nguồn lực lớn, là yếu tố số
một thúc đẩy quá trình phát triển của một nền kinh tế. Với dân số gần 80 triệu
dân, Việt nam là một thị trường đáng kể, là đối tượng quan tâm của giới kinh
doanh quốc tế.
Hơn nữa, Việt nam với tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định, tốc
độ tăng trưởng kinh tế mấy năm vừa qua đạt tỷ lệ cao so với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Cụ thể như năm 1999, tốc độ tăng trưởng 9,5%; năm 2000
là 9,3%; năm 2001 là 9%. Chúng ta có sự cải thiện liên tục tình hình kinh tế
pháp luật và chính sách thương mại thông thoáng. Đó là những nhân tố tạo niềm
tin và sức hấp dẫn cho các đối tác nước ngoài.
• Thách đố:
Bên cạnh những cơ hội thì chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn

gia vào sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời cũng thông qua luật đầu tư này mà
quyền trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu của các ngành, các địa phương ngày
càng được mở rộng.
Bên cạnh việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, chúng ta còn
có những bước thay đổi lớn trong quan hệ chính trị, ngoại giao. Cụ thể là đầu
năm 1998, mối quan hệ giữa Việt nam và Mỹ được bình thường hoá. Có thể nói
điều này đã mở cho Việt nam những bước tiến mới cho hoạt động xuất nhập
khẩu. Từ đây, Việt nam đã có cơ hội bắt tay và tiếp xúc được với nhiều nước
khác trên thế giới. Hàng hoá xuất khẩu của Việt nam đã xuất hiện ở nhiều thị
trường mới với số lượng ngày càng lớn.
Tiếp theo đó là một sự kiện cực kỳ quan trọng đối với Việt nam, đó là
việc gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN vào tháng 7 năm
1999. Có thể nói đây thực sự là cái mốc rất lớn đánh dấu sự hội nhập thực sự
của nền kinh tế Việt nam vào khu vực và thế giới. Tuy khả năng về vốn và công
nghệ của các nước thuộc khối ASEAN không phải là lớn, nhưng lại là những
nước có nhu cầu tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá và là nơi đầu tư có hiệu
quả. Trong khi đó, Việt nam với tài nguyên thiên nhiên phong phú, thị trường
lao động rẻ là lực hút đối với các nhà đầu tư. Thông qua việc đầu tư của các
nước ASEAN vào Việt nam, chúng ta có thể tiếp thu những công nghệ mới và
nâng cao chất lượng các mặt hàng phục vụ xuất khẩu.
Việt nam đang chuẩn bị gia nhập WTO. Đến tháng 11/1998 Việt nam
chính thức gia nhập APEC. Khi chúng ta gia nhập vào các tổ chức này, chúng ta
phải làm theo những quy định của tổ chức này. Trong đó quan trọng nhất là
12
những quy định về hàng rào thuế quan giữa các nước. Chúng ta phải đối phó với
sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, chịu ảnh hưởng của xu thế “tự do
hoá thương mại”, của biến động giá cả quốc tế, lãi suất, tình hình cung cầu hàng
hoá và vốn đầu tư, nhu cầu đa dạng của thị trường.
Kể từ đầu tháng 7/1997 khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực với tâm
điểm là Thái lan đã lan rộng sang các nước Đông Nam Á, khiến đồng tiền của

tung ra thị trường những mặt hàng có chất lượng phù hợp. Thực hiện chiến lược
hướng mạnh về xuất khẩu đòi hỏi mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải
lấy hiệu quả kinh tế làm căn cứ để lựa chọn mặt hàng (trừ các mặt hàng thuộc
nhu cầu an ninh quốc gia), không nhất thiết phải tập trung vào các mặt hàng để
tăng hoặc đạt kim ngạch lớn nhưng không có hiệu quả hoặc đạt hiệu quả kinh tế
thấp.
13
Thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới luôn có sự phân tầng
về thu nhập và trình độ tiêu dùng, ví dụ như các nước thuộc nhóm G7 (Anh,
Pháp, Canađa, Đức, Italia, Mỹ, Nhật Bản) luôn đòi hỏi hàng hoá, công nghệ và
dịch vụ đạt chất lượng cao. Phần lớn ở các nước đang phát triển có yêu cầu ở
mức thấp hơn. Bên cạnh đó còn có nhiều nước chậm phát triển thì các đòi hỏi ở
vào trình độ thấp. Với thực tế và xu hướng tiếp tục diễn ra trong thời gian tới
cần xem xét lại quan diểm về chất lượng hàng hoá của Việt nam. Hiện nay,
trong quan diểm về hàng hoá người ta ít chạy theo những mục tiêu chất lượng
cao mà chuyển sang chất lượng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và nhiều nước khác
trên thế giới đã rất thành công trong chiến lược hướng về xuất khẩu, phần là họ
đã vận dụng tốt quan điểm này để đưa ra thị trường các hàng hoá dịch vụ có độ
đa dạng về cấp chất lượng. Việt nam chúng ta nên học tập những thành tựu đã
đạt được của họ.
Hoàn thiện hệ thống tổ chức và phương thức kinh doanh có hiệu quả
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp. Để đẩy mạnh xuất khẩu không chỉ có nhờ thị trường tiêu thụ
hàng hoá hoặc chờ hàng hoá được sản xuất ra có đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu mà
còn phải có các doanh nghiệp và các doanh gia có khả năng tổ chức và thực hiện
tốt nhiệm vụ xuất khẩu. Trong quá trình hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất và
kinh doanh thương mại nhằm thực thi chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu còn
quan tâm đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh xuất khẩu cần dựa chủ yếu vào các doanh nghiệp của

nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là
nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, có hiệu quả. Phấn đấu vượt qua
tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố
quốc phòng và an ninh tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế
kỷ 21.
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế
quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế
so sánh, buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn
tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá
thương mại. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường, kể
cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hướng về xuất khẩu không có
nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu.
Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu nhằm:
• Để đảo bảo kim nghạch nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước
• Gắn sản xuất và nền kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế
giới, nối kết các nền kinh tế với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng
lớn hơn nhờ liên kết và buôn bán quốc tế.
• Tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra
ngoại tệ để nhập khẩu. Khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối
của đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển. Buộc các ngành kinh
tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải đổi mới công nghệ, tiếp thu kỹ thuật
mới, phát huy lợi thế của các nước đi sau để đi tắt vào kỹ thuật tiên tiến nhất.
15
• Góp phần tăng tích luỹ và sử dụng vốn trong nước. Tận dụng được nguồn
vốn của nước ngoài có tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước.
• Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước.
• Thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại giữa các nước, nâng cao uy tín của
Việt nam trên trường quốc tế và khu vực.
II. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU

tài nguyên chưa qua chế biến. Chuyển từ xuất khẩu gạo, cà phê hạt, hạt điều, rau
16
quả sang thực phẩm chế biến như cà phê hoà tan... có bao bì hiện đại, mẫu mã
đẹp, thuận lợi cho bảo quản và sử dụng.
Thứ hai, tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu để
một mặt nâng cao giá trị hàng xuất khẩu mặt khác tận dụng được lao động trong
nước. Kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài để chế biến thành sản phẩm những ngành
cần đầu tư nhiều vốn để một phần thay thế hàng nhập khẩu.
Thứ ba, nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh
hàng hoá của ta trên thị trường quốc tế.
Thứ tư, tạo ra những ngành hàng xuất khẩu mới có giá trị cao mạnh dạn
đào thải những mặt hàng xuất khẩu không mang lại hiệu quả kinh tế. Tiến hành
phát triển quy hoạch các mặt hàng chủ lực để xuất khẩu.
2. Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu.
Chính sách này có tầm quan trọng trong việc đẩy mạnh hàng xuất khẩu.
Chúng ta cần phải thấy được mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa sản
xuất và xuất khẩu. Sản xuất tốt thì xuất khẩu tốt, kinh tế tăng trưởng và ngược
lại. Sản xuất là điều kiện cần của xuất khẩu. Muốn tạo ra được hàng hoá xuất
khẩu chiếm lĩnh được thị trường thì khâu sản xuất phải được chú trọng, để tạo
ra sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hạ. Muốn vậy phải tạo điều kiện để người
sản xuất hiểu biết về thị trường của từng nước, từng khu vực trên thế giới và thị
trường trong nước. Thiết lập tốt mối quan hệ bạn hàng với các tổ chức và cá
nhân kinh doanh xuất nhập khẩu trong và ngoài nước thực hiện phương châm “
Buôn có bạn, bán có phường “ thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các nhà
sản xuất hàng xuất khẩu như: các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được
miễn thuế doanh thu. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu tăng lợi nhuận
đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu được giảm thuế lợi tức, các doanh nghiệp
gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị,
vật tư tiêu dùng cho gia công hàng, tiền gia công hàng được miễn thuế doanh
thu. Vật tư hàng nhập khẩu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế

Với Thái Lan, ta có khả năng hợp tác khai thác đánh bắt nuôi trồng và
chế biến hải sản, khai thác đá quý, hợp tác liên doanh trồng và chế biến nông
sản, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất hàng dệt, hàng tiêu dùng...
Với Philippin, ta cần thúc đẩy buôn bán hai chiều đồng thời xúc tiến các
liên doanh về lắp ráp ôtô, khai thác cát trắng, công nghiệp chế biến nông, lâm,
hải sản...
Với Indonesia ta có điều kiện tiếp tục buôn bán hai chiều nhập phân bón,
sắt thép thành phẩm và có thể hợp tác với Indonesia về các lĩnh vực dịch vụ
khách sạn, ngân hàng, hơi đốt, sản xuất URE, khai thác than...
Với Brunei, ta có thể liên doanh về hàng không, dịch vụ tranh thủ vốn và
hợp tác lao động.
Thị trường Nhật bản: Nhật bản hiện nay đã trở thành trung tâm giao dịch
chứng khoán, tiền tệ lớn thế giới. Nhật bản có thế mạnh về kinh tế, công nghiệp,
thương mại và thị trường. Nhật bản đang hướng vào các hoạt động tiền tệ vào
Châu Á muốn tăng cường buôn bán, đầu tư vào các nước Châu Á. Trong nhiều
năm qua Nhật bản là thị trường quan trọng của Việt nam. Nhật bản nhập khẩu
phần lớn là dầu thô, than đá, hàng thuỷ sản của Việt nam. Chính sách của Việt
nam chú trọng vào thị trường này là vì Nhật bản đã mở lại viện trợ phát triển
cho Việt nam vay. Nhật bản cần nhiều thứ của Việt nam như dầu thô hàng công
nghiệp may mặc, than đá, các mặt hàng thuỷ sản. Ngược lại, nước ta cần nhập
18
khẩu nhiều thứ của Nhật như máy móc, trang thiết bị điện tử tin học, nguyên
liệu, phân bón, hàng tiêu dùng...
Thị trường liên hiệp Châu âu EU (European Union). EU là thị trường lớn.
Trong quá khứ chúng ta ít buôn bán với thị trường này bởi chính sách phong toả
kinh tế đối với các nước XHCN của các nước đế quốc. Nhưng từ khi Liên xô và
các nước Đông Âu tan rã quan hệ thương mại, đầu tư Việt nam vào EU được cải
thiện. Đặc biệt sau những chuyến viếng thăm của các vị lãnh đạo cao cấp nhà
nước ta. Quan hệ kinh tế giữa EU và Việt nam được tăng cường. Việt nam tiếp
tục thúc đẩy chính sách xuất khẩu sang EU, các mặt hàng xuất khẩu Việt nam

với Việt nam (trừ Saudi Arabi), một số nước đã có quan hệ kinh tế, thương mại,
đã có ký kết hiệp định thương mại và thành lập uỷ ban hỗn hợp liên Chính phủ
với Việt nam như Iraq, Libi, Ai cập... Các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam
sang khu vực Trung Đông là gạo, chè đen. Để tăng kim ngạch xuất khẩu của ta
19
trong những năm tới, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu
là cần thiết. Trung Đông - một thị trường có sức tiêu thụ lớn, các công ty xuất
khẩu của ta cần thâm nhập hơn nữa vào thị trường này.
4. Chính sách đầu tư trong và ngoài nước.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Cần huy động mọi nguồn
vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý
nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng ...”
Đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư
của quốc gia. Trong những năm trước mắt khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn
hạn hẹp thì đầu tư nước ngoài chiếm vị trí quan trọng. Thông qua đầu tư trực
tiếp của nước ngoài chúng ta tranh thủ được vốn, kỹ thuật và công nghệ mới,
mở rộng thị trường ngoài nước, tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây
dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá cơ sở hiện có nhằm tạo việc làm cho
người lao động, khai thác một phần những tiềm năng của đất nước để tăng
nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện
chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Hiện nay khu vực có đầu tư
nước ngoài chiếm 100% sản lượng dầu thô, 44,8% sản lượng thép... Trong tổng
kim ngạch xuất khẩu năm 2000 phần đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm 11% nếu tính cả xuất khẩu dầu thô thì tỷ lệ này nên đến 25%.
Trong thời gian vừa qua, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông
Nam Á làm cho môi trường đầu tư của họ xấu đi sẽ đưa đến kết quả là quá
trình phân bố lại chu chuyển vốn đầu tư trong khu vực và làm chậm lại quá trình
tự do hoá thương mại đầu tư và tiền tệ trong khu vực các nước ASEAN. Đó
cũng chính là cơ hội để Việt nam có thể nhận thêm các nguồn đầu tư mới, tranh

liên doanh có lãi. Các nhà đầu tư được phép chuyển lợi nhuận về nước hoặc
sang nước thứ 3 và chịu mức thuế chuyển lợi nhuận 5%, 7% hoặc 10% tuỳ theo
từng dự án. Trong trường hợp họ không chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt nam mà
tái đầu tư ở Việt nam thì được hoàn lại toàn bộ thuế lợi tức cho số lợi nhuận tái
đầu tư đó.
Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, luật thuế giá trị gia tăng đã được thông
qua và sẽ được áp dụng từ 1/1/1999 trong đó quy định mức thuế 0% đối với tất
cả các hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị
gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là biện pháp tài chính khuyến khích xuất
khẩu tích cực của Việt nam
5.2. Hạn ngạch xuất khẩu.
Hàng năm bộ thương mại công bố danh mục các mặt hàng quản lý bằng
hạn ngạch. Bên cạnh đó giảm dần các mặt hàng quản lý hạn ngạch kể cả xuất
khẩu và nhập khẩu trừ các hạn ngạch đối với các mặt hàng có cam kết số lượng
với nước ngoài mà Việt nam cần phải thực hiện.
Việc dành hạn ngạch xuất khẩu để phân bố cho các địa phương, đơn vị
sản xuất thông qua các bộ, ngành hàng như hiện nay vừa gây phiền hà cho cơ
sở, vừa không phù hợp với kinh tế thị trường. Các địa phương, các đơn vị sản
xuất cố giành cho được quota mặc dù thiếu vốn, không có thị trường, thiếu
phương tiện kinh doanh, không có khả năng thực hiện. Điều đó tất yếu dẫn đến
tình trạng mua bán quota vòng vèo. Do vậy cần hoàn thiện phương thức phân bố
quota theo nguyên tắc “ Một cửa” chỉ phân cho các đơn vị đã có quyền xuất
khẩu trực tiếp theo nhóm hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả cao. Tiến tới phân bổ
quota theo hình thức gọi thầu hoặc đấu giá với sự tham gia của các đơn vị sản
xuất và đơn vị lưu thông có vốn và quan hệ thị trường.
21
5.3. Giấy phép xuất khẩu:
Nếu hàng hoá thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì các doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu phải xin phép xuất khẩu tại cơ quan có thẩm quyền do pháp
luật quy định. Ở Việt nam các loại hàng hoá sau đây khi qua các cửa khẩu Việt

5.6. Tỉ giá hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá hối đoái là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả
xuất khẩu và đương nhiên nó ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu. Tỷ
giá hối đoái liên quan chặt chẽ đến quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy chính sách tỷ
giá hối đoái luôn được xem xét trong bối cảnh của chính sách quản lý kinh tế vĩ
mô. Vấn đề là cần phải có chính sách về tỷ giá hối đoái linh hoạt đáp ứng sự
thay đổi nhanh chóng của thị trường trong và ngoài nước. Bởi vì tỷ giá hối đoái
có thể làm cho những cố gắng trong sản xuất để xuất khẩu tăng thêm phần lớn
giá trị hoặc hoàn toàn uổng công. Một chính sách về tỷ giá linh hoạt là một
chính sách luôn giữ cho kim ngạch xuất khẩu có thể cân bằng với kim ngạch
nhập khẩu trong mọi biến động giá cả ở thị trường nội địa và thị trường thế giới.
Không nên để tỷ giá đồng tiền Việt nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá
xa so với tỷ giá trên thị trường.
6. Chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu.
Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ tổ chức có hiệu
quả để giải quyết các lĩnh vực như: thu thập thông tin, phân phối thông tin và
tiếp thị...
Những hình thức hỗ trợ xuất khẩu bao gồm việc thành lập các tổ chức đẩy
mạnh xuất khẩu, giúp đỡ cho việc tiếp thị xuất khẩu và hỗ trợ cho các công ty
thương mại. Ở Việt nam nên có tổ chức xúc tiến thương mại của các nước tại
Việt nam với mục tiêu: đẩy mạnh đầu tư nước ngoài vào Việt nam và tăng
cường xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam ra nước ngoài các tổ chức hỗ trợ
xuất khẩu, tập trung đưa ra các giải pháp để tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu
có các điều kiện dễ dàng như:
• Hỗ trợ ngoại tệ cho các công ty nhập khẩu thông qua các hình thức cho vay
với lãi xuất ưu đãi.
• Cấp các thủ tục đặc biệt.
• Đầu tư vào một số công ty mậu dịch quốc tế.
• Tổ chức trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách với các nhà xuất khẩu

kích thích đầu tư quốc tế và các hoạt động khác giữa các thành viên.
Vì vậy, Việt nam cần phải tích cực tham gia các tổ chức kinh tế ở khu
vực và trên thế giới. Việt nam đang là thành viên của ASEAN thì cần phải phát
huy và nâng cao hơn nữa địa vị và vai trò của mình. Việt nam tham gia và cam
kết thực hiện tốt các vấn đề với AFTA, tiến tới ra nhập APEC (tháng 11/1998
Việt nam sẽ ra nhập APEC) và tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế WTO.
24
CHƯƠNG III
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
Trước hết phải thấy rằng việc chuyển sang hệ thống kinh tế thị trường đã
tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập vào hệ thống kinh tế thế
giới. Thông qua việc phân tích đánh giá kinh nghiệm phát triển của các nước đi
trước nhất là các mô hình kinh tế hướng vào xuất khẩu thành công ở một số
nước Châu Á. Chính phủ Việt Nam hiểu rõ ý nghĩa của việc thực hiện chiến
lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
Từ năm 1989 cùng với việc thực hiện chuyển đổi sang chính sách kinh tế
mở kết hợp với việc khai thác và sử dụng nguồn tiềm năng sẵn có trong nước và
quốc tế, đến nay hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu nói riêng đã có nhiều sự thay đổi căn bản và đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ. Trong đó phải kể đến sự thay đổi trong cơ cấu và thị
trường của hoạt động xuất khẩu. Nhờ vậy mà hàng năm kim ngạch xuất khẩu
của nước ta với tốc độ cao. Thật vậy, để hiểu rõ về vấn đề này và để đưa ra được
chiến lược tổng thể cùng các chính sách, biện pháp đồng bộ thực hiện chiến lược
hướng về xuất khẩu, chúng ta lần lượt phân tích những nội dung chính của nó.
I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN
NAY
1. Tốc độ và cơ cấu hàng xuất khẩu.
Có thể nói thông qua cơ cấu ngành hàng xuất khẩu người ta có thể đánh
giá trình độ và tính hiệu quả của xuất khẩu. Tuỳ theo mỗi nước mà người ta

khẩu tăng xấp xỉ 2 lần. Trong 5 năm 1995 - 1999 tốc độ tăng xuất khẩu bình
quân là 20% năm, nhập khẩu tăng 22% năm. Kim ngạch xuất khẩu tính theo
bình quân đầu người tăng đều qua các năm (năm 1995 là 30USD/người/năm,
năm 1999 là 73USD/người /năm, năm 2000 từ 90 - 100 USD/người/ năm). Tốc
độ xuất khẩu tăng nhanh vượt xa tốc độ tăng GDP. Thời kỳ 1995 - 1999 tốc độ
tăng xuất khẩu gần gấp 3 lần tốc độ tăng GDP.
Trong 5 năm 1995-1999 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 17 tỷ USD,
vượt chỉ tiêu kế hoạch (kế hoạch là 12-15 tỷ USD). Cơ cấu hàng xuất khẩu đã
có những thay đổi tích cực. Nhóm hàng xuất khẩu nguyên liệu thô giảm từ 92%

Trích đoạn Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHIẾN Biện pháp về thể chế tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu Nhà nước nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam Tăng cường hoạt động của cơ quan thường vụ ở nước ngoài
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status