đánh giá hiệu quả điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản bằng esomeprazole - Pdf 24

Đặt vấn đề
Trào ngược dạ dày thực quản (TNDDTQ) là một trong những bệnh khá
phổ biến trong dân số, vấn đề này đang được quan tâm ở nhiều nước trên thế
giới và được coi là có liên quan đến tỉ lệ ung thư biểu mô thực quản. Đây là
một trạng thái bệnh lý đã được biết từ hơn 3 thập kỷ nay, bệnh gặp nhiều ở
các nước Châu Âu, Châu Mỹ và một số nước Đông Nam Á.
Theo điều tra của tổ chức Gallup Hoa Kỳ (2005) thì có khoảng 44%
người trưởng thành bị nóng rát sau xương ức Ýt nhất là một lần mỗi tháng và
có khoảng 36% nóng rát thường xuyên hàng tháng [24].
Các trường hợp TNDDTQ có thể mắc các triệu chứng như: nóng rát sau
xương ức, ợ chua, nuốt khó, nuốt đau, đau ngực không do tim, ho kéo dài,
viêm thanh quản, hen phế quản… Nếu không điều trị kịp thời và đúng cách,
bệnh TNDDTQ mạn tính có thể gây biến chứng như viêm, loét, hẹp, chảy
máu thực quản, thậm chí dẫn tới ung thư.
Phương pháp điều trị bệnh TNDDTQ, kết hợp nhiều biện pháp từ thay đổi
lối sống, thuốc làm giảm acid dạ dày, thuốc kích thích chức năng vận động
thực quản- dạ dày, cho đến phẫu thuật. Hiện nay trên thế giới cũng nh ở Việt
nam, việc điều trị với thuốc ức chế bơm proton (PPIs) được lựa chọn nhiều nhất
(96%) [8], trong đó có khoảng một nửa số bệnh nhân có thể duy trì sự thành
công chỉ cần điều trị bằng PPIs cách ngày, nhóm BN không sử dụng PPIs có
đáp ứng kém là 47.1% so với nhóm BN được sử dụng PPIs là 24.8% [8].
Trong một nghiên cứu so sánh điều trị Esomeprazole 40mg/ngày, 4 tuần ở
BN TNDDTQ qua 2 phương thức chẩn đoán bệnh: Nhóm 1chẩn đoán dựa vào
lâm sàng và nhóm 2 chẩn đoán dựa vào nội soi. Nghiên cứu này đưa ra kết luận:
86,4% BN ở nhóm 1 và 87,5% BN ở nhóm 2 đáp ứng tốt với điều trị, và triệu
1
chứng nóng rát sau xương ức thuyên giảm một cách rõ rệt, chỉ còn 6,8% ở nhóm
1 và 6,9% ở nhóm 2 [15].
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn là bệnh TNDDTQ ngày càng có xu hướng
gia tăng, các triệu chứng lâm sàng của bệnh đa dạng và biểu hiện ở nhiều cơ
quan khác nhau. Nên rất dễ bị bỏ sót chẩn đoán, nếu được chẩn đoán đúng

đòn và phần tận cùng của ống ngực.
- Phần ngực của thực quản lúc đầu đi qua trung thất trên rồi đi qua trung
thất sau. Từ lúc hơi chếch sang trái ở lỗ trên lồng ngực, nó trở lại đường
giữa khi ở ngang mức đốt sống ngực 5 rồi từ đây lại tiếp tục đi xuống
dưới, ra trước và sang trái để tới lỗ thực quản cơ hoành.
Về liên quan từng phía của TQ ngực được biết theo thứ tự sau:
- Phía trước, thực quản liên quan víi khí quản, phế quản chính trái (yếu tố
làm hẹp thực quản), ngoại tâm mạc (ngăn cách thực quản với tâm nhĩ
trái) và cơ hoành.
- Phía sau, có các đốt sống ngực, ống ngực, tĩnh mạch đơn cùng với các
nhánh của nó và khi xuống gần tới cơ hoành có động mạch chủ xuống.
3
- Ở bên phải có màng phổi và quai tĩnh mạch đơn. Ở dưới cuống phổi, các
thần kinh lang thang tạo nên một đám rối trên bề mặt TQ. Thần kinh lang
thang trái nằm ở mặt trước, thần kinh lang thang phải nằm ở mặt sau.
- Ở bên trái, nó liên quan đến phần cuối của cung động mạch chủ, thần
kinh thanh quản quặt ngược trái, động mạch dưới đòn trái, ống ngực và
màng phổi trái.
- Ở bụng: dài 2-3cm từ lỗ cơ hoành đến lỗ tâm vị, sau khi đi qua lỗ thực
quản của cơ hoành, TQ tới nằm trong rãnh TQ ở mặt sau thùy trái của
gan và được phúc mạc che phủ mặt trước và mặt trái. Phía sau TQ là trụ
trái cơ hoành.
Động mạch của TQ bao gồm động mạch giáp dưới, động mạch phế
quản, động mạch hoành trái, động mạch vị trái cùng một loạt các nhánh nhỏ
xuất phát từ động mạch chủ [5].
Hệ tĩnh mạch hình thành một đám rối rất phát triển ở dưới niêm mạc và
đổ vào tĩnh mạch giáp, tĩnh mạch Azygos. Bản Azygos hình thành hệ thống
quan trọng nối liền hệ thống tĩnh mạch chủ với tĩnh mạch cửa.
Thực tế thực quản được chia thành 3 phần tính từ cung răng trên:
- 1/3 trên nằm trong khoảng từ 18-25 cm

tổ chức lân cận, còn ở phần dưới cơ hoành lớp vỏ và lớp thanh mạc giống như
ở dạ dày [4].
1.1.3. Sinh lý học
Hai chức năng chính của TQ là vận chuyển viên thức ăn từ miệng xuống
dạ dày và ngăn dòng chảy ngược của các chất chứa trong dạ dày ruột. Chức
5
năng vận chuyển được hoàn thành bởi các co nhu động. Dòng chảy ngược
được ngăn lại bởi hai cơ thắt của TQ, vẫn đóng giữa các lần nuốt. Sự đóng mở
tâm vị cũng phụ thuộc vào 2 cơ thắt, van Gubarroff và góc Hiss.
- Cơ thắt thực quản trên: cơ thắt trên TQ có một trương lực co cơ ổn định
trong lúc nghỉ. Bằng cách đo áp lực người ta thấy vùng này có áp lực cao
nhất. Bình thường áp lực ở đây cao hơn áp lực trong thực quản hay trong lồng
ngực 40-100mmHg. Chiều dài của vùng này từ 2-4cm, tương ứng từ cơ bám
sụn hầu đến cơ khít hầu dưới. Khi bắt đầu nuốt, cơ thắt trên giãn ra hoàn toàn
trong vòng khoảng 0,2 giây, thời gian áp lực giảm xuống bằng áp lực trong
lồng ngực hoặc trong lòng TQ khoảng 1 giây. Sự giảm áp lực khi nuốt cùng
với sự co bóp của hầu làm cho thức ăn dễ dàng đi qua. Cơ thắt thực quản trên
còn có tác dụng đề phòng trào ngược thực quản hầu bằng phản xạ co lại khi
dạ dày căng hoặc khi truyền acid vào 1/3 trên của thực quản [1].
- Nhu động thực quản: nuốt tạo ra nhu động TQ thông qua trung tâm
nuốt ở hành não. Sau đó là một loạt các co bóp từ hầu qua thân TQ rồi xuống
cơ thắt TQ dưới. Có một sự phối hợp chặt chẽ giữa vùng hạ hầu, sụn nhẫn, cơ
thắt trên và cơ vân TQ thông qua cung phản xạ của trung tâm nuốt. Động tác
nuốt kích thích dây X tạo nên một loạt các nhu động ở trong cơ trơn 2/3 dưới
TQ, các sóng nhu động này lan tới vận tốc 3-5cm/giây. Nhu động tiên phát do
trung tâm nuốt, còn nhu động thứ phát do căng tại chỗ của TQ bởi thức ăn,
nước uống.
- Cơ thắt dưới thực quản: nó có vai trò ngăn trào ngược dạ dày vào
TQ. Cơ thắt TQ dưới có tác dụng duy trì một vùng áp lực cao hơn áp lực
trong dạ dày từ 15-30mmHg, áp lực tăng lên sau bữa ăn hoặc khi có tăng áp

carbonic (AC) tạo thành H
2
CO
3
. Sau đó, H
2
CO
3
phân ly thành HCO
3
-
và H
+
.
Nhờ “ Bơm proton”, ion H
+
được đưa vào lòng tuyến còn ion K
+
được đưa
vào trong tế bào. Ion CL
-
khuyếch tán tự động từ máu vào tế bào và từ tế bào
vào lòng ống tuyến. Trong lòng ống tuyến ion H
+
và ion CL
-
kết hợp với nhau
tạo thành HCL. Thuốc ức chế đặc hiệu lên bơm proton có tác dụng làm giảm
7
tiết HCL. Dịch vị tinh khiết có pH thấp nhất vào khoảng 1. Trong dạ dày,

sự công bố năm 1976 khi điều tra ở một số người cho thấy: tỉ lệ mắc triệu
chứng nóng rát sau xương ức xảy ra Ýt nhất một lần trong một ngày ở 7%,
14% Ýt nhất một lần một tuần và 15% Ýt nhất một tháng một lần. Theo điều
tra của tổ chức Gallup thấy rằng tại Mỹ có 44% người lớn mắc triệu chứng
nóng rát sau xương ức 1 lần hàng tháng [24].
Mặc dù tỉ lệ mắc bệnh TNDDTQ ở Nhật thấp hơn so với các nước phát
triển khác [16]. Nhưng theo Fujiwara và cộng sự khi điều tra bằng phiếu trả
lời câu hỏi đã nhận thấy tỷ lệ mắc các triệu chứng TNDDTQ xuất hiện hàng
ngày là 2,1%, 4,6% xuất hiện hai lần một tuần, 12,8% xuất hiện hai lần một
tháng và khoảng 24,7%số người Ýt hơn hai lần một tháng [17]. Qua nghiên
cứu này cũng cho thấy tỉ lệ mắc bệnh TNDDTQ của Nhật vào khoảng 6,6%.
Trong 6 nghiên cứu ở Châu Âu với hai nghiên cứu ở Anh thấy rằng tại
thành phố Britol (nước Anh) trong số những người được phỏng vấn trong độ
tuổi từ 17-91 thì có 10,3% bị nóng rát sau xương ức hàng tuần [19]. Tại Phần
Lan trong một nghiên cứu ngẫu nhiên 2.500 người từ 20 tuổi trở lên bằng câu
hỏi qua bưu điện thấy có 15% số người được hỏi xuất hiện nóng rát và ợ chua
hàng tuần [22]. Tại Tây Ban Nha nghiên cứu của Diaz-Rubio và cộng sự cho
kết quả 9,8% số người được hỏi có triệu chứng TNDDTQ [20].
Hai nghiên cứu được tiến hành tại Hồng Kong và Trung Quốc của Hu
và cộng sự bằng cách gọi điện thoại ngẫu nhiên đến các gia đình phỏng vấn
những người trên 18 tuổi, ở Hồng Kong tỉ lệ nóng rát sau xương ức và ợ chua
hàng tuần là 4,8%, ở Trung Quốc là 2,5%. Theo Pan và cộng sự nghiên cứu
ngẫu nhiên người trưởng thành từ 18-70 tuổi tại thành phố Bắc Kinh và
Thượng Hải với sự giúp đỡ của người chuyên môn để trả lời câu hỏi đã ghi
9
nhận có khoảng 3,1% bị nóng rát sau xương ức hàng tuần trong năm [14]. Tại
Singapore trong 696 người tham gia phỏng vấn bằng bộ câu hỏi có 1,6% bị
nóng rát hàng tháng.
Ở Việt nam hiện nay chưa có một nghiên cứu nào tại cộng đồng để điều
tra tỉ lệ mắc bệnh. Nhưng theo tác giả Lê Văn Dũng tiến hành thử tại khoa

có tác dụng tăng cường cho cơ thắt dưới như một gọng kìm. Khi cơ hoành co
thì lỗ tâm hoành khép chặt lại hơn nên có vai trò tăng cường thêm cho cơ thắt
dưới, ngăn cản tình trạng trào ngược khi tăng áp lực trong ổ bụng do hoạt
động gắng sức sinh lý như ho, hắt hơi. Khi giảm trương lực cơ thắt tạo điều
kiện thoát vị hoành và gây túi dịch, do đó thúc đẩy TNDDTQ [1].
- Sự làm sạch của TQ:
+ Tư thế ngồi giúp cho các thành phần trào ngược trở lại dạ dày nhanh
hơn, tuy nhiên nhu động của TQ là khâu quan trọng để làm sạch acid kể cả tư
thế đứng và tư thế nằm.
+ Nhu động tiên phát xuất hiện thông qua động tác nuốt, có tác dụng
nhanh chóng đưa thức ăn xuống dạ dày, nhu động thứ phát rất quan trọng xẩy
ra tù nhiên, thường xuyên không liên tới động tác nuốt vì thế khi ta nằm ngủ
vẫn có nhu động để làm sạch TQ.
+ Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy acid và pepsin là tác nhân
chính gây ra viêm TQ. Mặc dù nhu động của TQ nhanh chóng đẩy các chất
trào ngược xuống dạ dày nhưng vẫn còn một lượng nhỏ acid bám vào thành
TQ, các chất kiềm trong nước bọt sẽ trung hòa lượng acid này [1].
Tóm lại, cơ chế trào ngược bao gồm các quá trình sau:
11
- Do sự giãn ra hoàn toàn của cơ thắt dưới TQ không liên quan trực tiếp
với động tác nuốt kéo dài trong một thời gian nhất định.
- Sự tăng áp lực trong ổ bụng tạo ra sự chênh lệch áp lực vượt quá khả
năng bảo vệ của cơ thắt dưới.
- Trào ngược có thể xảy ra tù nhiên do áp lực cơ thắt dưới
thường xuyên thấp.
Nh vậy hiện tượng trào ngược thường xảy ra khi cơ thắt dưới TQ giảm,
do các đợt tăng áp lực trong dạ dày đột ngột, do cơ thắt tâm vị yếu đóng
không kín.
1.2.4. Nguyên nhân
Bệnh TNDDTQ không đơn thuần là do sự rối loạn vận động của TQ- dạ

dễ nảy sinh TNDDTQ. Đặc biệt những người nghiện thuốc, ngoài hiện tượng
giảm cơ thắt TQ, còn thấy tình trạng tăng áp lực trong khoang bụng tương
ứng với lúc hÝt mạnh hoặc ho [13].
- Béo phì
1.3. Chẩn đoán bệnh TNDDTQ
1.3.1. Lâm sàng
- Bệnh TNDDTQ có triệu chứng rất đa dạng, từ những tổn thương rất
nhẹ không triệu chứng, không biến chứng cho tới những trường hợp viêm TQ
có biến chứng về giải phẫu và chức năng.
- Các triệu chứng điển hình:
+ Nóng rát sau xương ức: bệnh nhân có cảm giác nóng rát sau xương
ức, lan lên trên, xuất hiện sau bữa ăn, khi nằm ngửa hoặc khi cói. Triệu chứng
đau tăng lên khi có kết hợp với các yếu tố như ăn no, uống bia rượu, cà phê.
Triệu chứng cũng có thể giảm đi khi dùng các thuốc trung hòa acid, ngồi hay
13
đứng dậy. Nóng rát sau bữa ăn và đêm phải thức dậy nhiều lần thường xảy ra
ở người có viêm TQ nặng.
+ Ợ chua: bệnh nhân có cảm giác chua miệng khi ợ, thường xuất hiện
sau ăn, khi nằm hoặc vào ban đêm, khi thay đổi tư thế. Ợ chua thường vào
ban đêm kèm với cơn ho, khó thở. Dịch acid trào ngược lên họng gây nôn.
- Các triệu chứng không điển hình:
+ Nuốt khó: khó khăn khi nuốt, cảm thấy vướng thường do co thắt, phù
nề hoặc do hẹp TQ.
+ Nuốt đau: là hiện tượng đau khi nuốt thường gắn với viêm TQ nặng
và thường báo hiệu là biến chứng ở TQ.
+ Đau ngực: giống như cơn đau thắt ngực nhưng ở đây cơn đau không
điển hình. Đặc điểm là đau rát sau xương ức, lan lên vai, sau lưng, lên cung
răng. Các triệu chứng xảy ra không theo qui luật, ngắt quãng, không liên quan
đến bữa ăn, lao động nặng hoặc gắng sức, đáp ứng kém với các thuốc giãn
mạch. Các triệu chứng này tuy do trào ngược nhưng cũng nên làm các thăm

trường hợp có triệu chứng lâm sàng nhưng không có viêm TQ trên nội soi,
như vậy nhiều BN nên được chụp XQ có uống Barit. Hình ảnh thường gặp
khi chụp XQ là vùng nối giữa TQ dạ dày thô. Không có một biện pháp thăm
dò đơn độc nào có thể chẩn đoán chắc chắn TNDDTQ, với các test kích thích,
trào ngược chỉ xuất hiện ở 25-71% người có triệu chứng, nhưng cũng thấy
20% ở nhóm chứng. Chụp TQ đối quang kép cũng không có giá trị nhiều hơn
so với nội soi hay đo pH vì chụp XQ thường xuyên bỏ sót các tổn thương mặc
dù thực tế có tổn thương [6].
15
1.3.2.2. Đo áp lực cơ thắt dưới TQ
Đo áp lực cơ thắt dưới TQ đơn lẻ không có giá trị chẩn đoán vì một số
có tăng áp lực cơ thắt dưới TQ nhưng lại có và không có viêm TQ. Người ta
dùng ống thông nhỏ có lỗ ở bên rồi bơm nước với lưu lượng thấp và để
nghiên cứu vận động của TQ, xác định trương lực cũng nh đề kháng của cơ
thắt trên và dưới của TQ. Thay đổi áp lực của dịch bơm vào có liên quan đến
thay đổi áp lực trong lòng TQ. Phương pháp này có giá trị đối với BN trước
khi phẫu thuật để điều trị trào ngược. Khi thấy áp lực cơ thắt dưới TQ thấp
người ta dùng biện pháp tăng cường trương lực cơ thắt. Xét nghiệm này rất
khó xác định hiện tượng trào ngược trừ khi áp lực cơ thắt TQ thấp dưới
6mmHg.
1.3.2.3. Test Bernstein đo độ nhậy với acid của TQ
Test này được tiến hành lần đầu tiên vào những năm 1958 dùng để
phân biệt với những cơn đau ngực không do tim. Vào những năm 1978 người
ta làm nghiên cứu so sánh nội soi, chụp thực quản dạ dày có thuốc cản quang,
đo áp lực TQ và Bernstein test ở những BN nghi ngờ có TNDDTQ, thấy Test
này cho độ nhậy cao nhất (85%). Tuy nhiên có nhiều dương tính giả trên một
nửa số BN không có viêm TQ.
Người ta để BN ở tư thế ngồi, đặt sonde vào khoảng giữa TQ (khoảng
30cm tính từ lỗ mũi). Bơm dung dịch NaCl 0,9% trong vòng 15 phót, sau đó
bơm dung dịch HCl 0,1N với tốc độ 100-200 giọt/phút. Kết quả được coi là

hiệu là 100% nhưng lại chỉ phân biệt được 41% của các BN ở nhóm chứng.
Trong nghiên cứu ở BN nội trú thấy rằng 21% BN TNDDTQ có nội soi bình
17
thường nhưng có bất thường về pH TQ và 71% BN có viêm TQ trên nội soi
có bất thường về pH [18].
Trong thực tế lâm sàng, chỉ định đo pH TQ 24h trong các trường hợp
sau: thất bại với phương pháp điều trị, trước khi phẫu thuật, những trường hợp
không điển hình cần phối hợp để chẩn đoán xác định [21].
1.3.2.5. Chụp xạ hình TQ
Cho BN uống 0,5mCi Tecnexi 99m- Phyton. Sau những khoảng thời
gian nhất định, người ta xác định mật độ tập trung ở 1/3 dưới TQ. Độ nhậy
của phương pháp này thấp hơn so với đo pH TQ 24h. Tuy nhiên nó có ưu
điểm là một phương pháp đơn giản hơn, hầu như không gây tổn thương. Mặc
dù vậy nó không cho biết mối liên quan với triệu chứng lâm sàng như đo pH
TQ, và vì thế không ưu tiên lựa chọn đầu tiên trong chẩn đoán. Trong trường
hợp trẻ bú mẹ, trẻ nhỏ và trường hợp có triệu chứng dai dẳng mà pH TQ 24h
bình thường, người ta có thể sử dụng phương pháp này. Đặc biệt trong trường
hợp nghi ngờ trào ngược kiềm hoặc có triệu chứng phổi [23].
1.3.2.6. Nội soi
Vai trò của nội soi đánh giá những thay đổi của niêm mạc TQ, qua đó có
thể giúp tiến hành sinh thiết. Điều trị bệnh TNDDTQ bao gồm điều trị cả biến
chứng, có thể phát hiện tổn thương đường tiêu hóa trên phối hợp.
Các cách phân loại tổn thương TQ do TNDDTQ trên nội soi:
- Phân loai của Savary- Miller
+ Độ 1: có một vài đám xung huyết hay trợt loét nông nằm riêng rẽ
về một phía theo chu vi TQ.
+ Độ 2: có các đám xung huyết hay trợt loét nông nằm gần nhau
nhưng ranh giới còn rõ ràng nhưng không chiếm toàn bộ
chu vi TQ.
18

bao gồm sự pha trộn không đồng đều các tế bào biểu mô tương tự niêm mạc
dạ dày, ruột non, đại tràng sắp xếp thành các thành phần bề mặt gồm biểu mô
bề mặt, các khe giống dạ dày và các thành phần tuyến dưới niêm mạc, thỉnh
thoảng có thể thấy hình ảnh vi nhung mao. Khái niệm chung là sự phá hủy
biểu mô vẩy bình thường gây ra bởi trào ngược mãn tính, tiếp theo là tái tạo
biểu mô bằng biểu mô trụ có khả năng kháng acid, pepsin, dịch mật. Nguồn
gốc của bề mặt dị sản này không rõ, nhưng các nghiên cứu đều cho thấy các
tế bào mầm là có tiềm năng nhất. Nói chung Barrett TQ được coi là một trạng
thái không thể thay đổi được. Barrett TQ chiếm 3-12% các BN có triệu chứng
TNDDTQ.
- Chít hẹp TQ: do quá trình viêm tạo ra các sợi xơ lan xuống dưới niêm
mạc của TQ thường gặp trong các trường hợp trào ngược mãn tính như đặt
sonde dạ dày, nằm lâu, bệnh xơ cứng bì, loét dạ dày- hành tá tràng tăng tiết
dịch vị.
- Chảy máu TQ do viêm TQ nặng, các ổ loét do acid ăn sâu vào lớp cơ có
thể dẫn tới chảy máu.
- Biểu hiện ở phổi do trào ngược: rất khó xác định các bệnh lý ở phổi do
trào ngược gây ra. Tuy nhiên người ta thấy một số trường hợp có sự liên quan
giữa trào ngược và bệnh lý của phổi như viêm họng, ho kéo dài, hen phế
quản, ho ra máu.
1.3.4. Điều trị
1.3.4.1. Điều trị nội khoa
Có thể phối hợp nhiều phương pháp điều trị khác nhau từ thay đổi lối
sống, dùng thuốc cho đến phẫu thuật nội soi. Khi dùng thuốc cần phối hợp
các thuốc với nhau một cách hợp lý, theo đúng liều và đủ thời gian điều trị.
20
Mục đích điều trị làm giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, làm
liền sẹo các tổn thương nếu có, giảm nguy cơ biến chứng.
- Thay đổi lối sống
Đây là biện pháp đầu tiên áp dụng cho BN trào ngược. Thay đổi lối

các lò xo này sẽ hoạt động không tốt, do đó nệm bọt biển (không có lò xo bên
trong) sẽ thích hợp cho BN trào ngược hơn.
Thực hiện trị liệu bằng dược phẩm kết hợp với việc không ăn trước khi
ngủ 2-3h và ngủ giường có độ dốc thích hợp như trên, kết quả cho thấy hơn
95% Bn trào ngược giảm triệu chứng bệnh [10]. Một nghiên cứu công bố năm
2006 cho thấy trong liệu pháp thay đổi lối sống thì giảm cân và kê cao đầu
giường ngủ là 2 biện pháp có hiệu quả nhất trong điều trị trào ngược [23].
Ngoài ra BN trào ngược cũng cần phải giảm tress và không mặc quần
áo quá chật.
- Thuốc làm giảm acid dạ dày
(+) Thuốc trung hòa trực tiếp acid dạ dày
Bao gồm các thuốc có chứa các hoạt chất như natri hydrocarbonat,
nhôm hydroxyd, nhôm phosphat, magiehydroxyd, canxi carbonat Các thuốc
này có tác dụng làm giảm tạm thời các triệu chứng khó chịu ở BN trào ngược,
tuy nhiên nhóm thuốc này cũng có những tác dụng phụ. Bên cạnh đó, BN trào
ngược không nên sử dụng các antacid có chứa canxi. Nhóm thuốc này thường
làm ảnh hưởng tới các thuốc khác trong quá trình trị liệu nên cần phải uống xa
các thuốc khác từ 2-3h. Thuốc dạng gel, viên nén, hay viên sủi bọt. Các biệt
dược như Alka-Seltzer, Malox, Phospholugel, Mylanta Ngoài ra, alginat
22
(Gaviscon, glaxoSmithKline) mét antacid cũng được sử dụng để làm giảm
triệu chứng BN trào ngược. Do bản chất là polysacarid, alginat không được
cơ thể hấp thu. Dưới tác dụng của acid dạ dày, altacid kết tủa thành gel nhầy
trung tính bao phủ bề mặt niêm mạc dạ dày và đồng thời làm tăng pH của
dịch dạ dày. Do nhẹ nên gel này nằm ở phía trên mặt của các chất chứa trong
dạ dày. Lớp gel này làm giảm số lần trào ngược do độ nhớt cao, đồng thời khi
trào ngược lớp gel này cũng Ýt kích thích và bào mòn niêm mạc thực quản
hơn.
(+) Thuốc tác động lên sự tiết acid dạ dày
Có 2 nhóm thuốc có tác dụng này.

23
trào ngược cần có liều và thời gian sử dụng các thuốc này cao hơn liều chuẩn
trong điều trị loét dạ dày, tá tràng.
1.3.4.3 Thuốc kích thích chức năng vận động thực quản- dạ dày [10].
Nhóm thuốc này có tác động kích thích nhu động TQ, tăng trương lực
cơ thắt TQ dưới, tăng vận động TQ- dạ dày- tá tràng và thúc đẩy quá trình
làm rỗng dạ dày.
Cho tới hiện nay, các thuốc tăng cường vận động điều trị trào ngược
chủ yếu là sự giãn ngắn hạn và sự bất thường của cơ thắt TQ dưới. Sự giãn
ngắn hạn này có liên quan đến sự trương phồng của dạ dày sau mỗi bữa ăn.
Phần lớn BN thường có quá trình trào ngược khi có sự giãn ngắn hạn này.
Các chất có tác dụng làm giảm số lần giãn nhất thời và/hoặc cải thiện trạng thái
của cơ vòng thắt TQ đã được nghiên cứu liên tục trong 10 năm trở lại đây.
Bệnh nhân trào ngược với nhu động hệ tiêu hóa bình thường có hay không kèm
theo hiện tượng bào mòn nhẹ thì có thể điều trị bằng các thuốc tăng cường vận
động này.
Baclofen (Lioresal), một chất chủ vận trên thụ thể GABA- beta, có tác
động tốt trên sự giãn ngắn hạn này. Tuy nhiên thuốc này có tác dụng phụ trên
thần kinh trung ương.
Cisaprite (Prepulsid), một chất chủ vận trên 5-hydroxytryptamine-4
(5-HT4) có khả năng làm tăng trương lực cơ vòng dưới TQ và làm tăng khả
năng làm rỗng dạ dày. Cisaprite được chấp nhận đưa vào sử dụng năm 1993
trong điều trị bệnh trào ngược đặc biệt hiệu quả ở những trường hợp trào
ngược về đêm. Doanh số của Prepulsid đạt hơn 1 tỷ USD trước khi bị rót ra
khỏi thị trường năm 1999 vì tác dụng phụ của nó liên quan đến tới loạn nhịp
tim (kéo dài QT trên điện tâm đồ) và có khả năng gây xoắn đỉnh khi phối hợp
với một số thuốc kháng sinh thuộc họ Macrolid, kháng nấm họ conazol như
Fluconazol, Ketoconazol, Itraconazol, Miconazol.
24
Các thuốc kích thích sự vận động của dạ dày ruột như Metoclopamid

triệu chứng trào ngược. Đồng thời, thuốc chế bơm proton cũng không làm
tăng cơ chế bảo vệ trong trào ngược hay cải thiện tình trạng làm rỗng dạ dày.
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status