Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO - Pdf 24

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính tất yếu
Xu thế toàn cầu hóa, HNKTQT và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật
của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn
nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế khu vực và
quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý
chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế
thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Gia nhập WTO là
cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với NCNĐT Việt Nam. CNĐT Việt Nam bên
cạnh những cơ hội mới với khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, khả năng thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ sẽ phải đối mặt với những thách thức
to lớn xuất phát từ các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh là giải pháp then chốt để kinh tế nói
chung và CNĐT nói riêng có thể hội nhập thành công
Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã nêu
rõ, ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển nền kinh
tế, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với một số
ngành công nghiệp chế tác tham gia vào nhóm nước đứng đầu trong khu vực. Trên cơ sở
các quan điểm và mục tiêu đó, cần phát triển phù hợp cho những ngành sản xuất có hiệu
quả (điện tử, điện tử-Tin học, cơ điện tử), để trở thành các ngành mũi nhọn. Bắt đầu từ
những năm giữa thập niên 90, chính phủ Việt Nam đã “bắt tay” vào xây dựng một ngành
công nghiệp điện tử cho Việt Nam, nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế thì chưa
thể khẳng định là đã có ngành công nghiệp điện tử tại Việt Nam. Do hàng điện tử Việt
Nam với chất lượng còn thấp và không ổn định, giá cả lại cao do đó, chưa khai thác
được hết tiềm năng và thế mạnh của ngành. Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển
của thị trường hàng điện tử Việt Nam sẽ bị tác động mạnh bởi xu thế toàn cầu hoá, tự do
hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ nhanh, đặc biệt là khi Việt Nam thực
hiện lịch trình giảm thuế quan theo quy định của WTO đối với mặt hàng điện tử.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO” được chọn để nghiên
cứu.

nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990
đến nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành
công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Chương 1. Cơ sở lí luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh
nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
2
2
1.1 Lí luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Về phương diện kinh tế, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện của cơ
chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh
hồn sống của thị trường.
P.Samuelson cho rằng “Cạnh tranh là sự đối đầu giữa các DN cạnh tranh với
nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù ở trường phái nào đều thừa nhận rằng, cạnh
tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả
hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị
trường, cạnh tranh là linh hồn của sản phẩm. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là
động lực phát triển nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác nhau,
cho nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Có thể dẫn ra một số quan điểm như
sau:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất,
thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh
tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận.

nay được đánh giá là có năng lực cạnh tranh, nhưng năm sau, hoặc năm sau nữa lại
không còn khả năng cạnh tranh nếu không giữ được các yếu tố lợi thế.
Năng lực cạnh tranh của DN có thể được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì
hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trờng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
của DN. Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của DN, trong đó cần phân
biệt các yếu tố ngoài DN và các yếu tố do DN chi phối.
c. Khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh là sự năng động, khả năng đáp ứng thay đổi nhanh chóng
của thị trường, năng lực sản xuất dựa trên công nghệ là nền tảng để sống còn và phát
triển.
d. Chất lượng sản phẩm
Khi nêu câu hỏi “thế nào là chất lượng sản phẩm”, chất lượng thường nhận được
rất nhiều câu trả lời khác nhau tùy theo đối tượng được hỏi là ai. Các câu trả lời thường
thấy như:
Đó là những gì họ được thỏa mãn tương đương với số tiền họ chi trả. Đó là
những gì họ muốn được thỏa mãn nhiều hơn so với số tiền họ chi trả. Sản phẩm phải đạt
hoặc vượt trình độ của khu vực, hay tương đương hoặc vượt trình độ thế giới.
Một số định nghĩa về chất lượng thường gặp :
Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng.
(European Organization for Quality Control). Hay chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu.
(Philip B. Crosby) và chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực
thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn. (ISO 8402)
( thực thể trong định nghĩa trên được hiểu là sản phẩm theo nghĩa rộng).
Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét định kỳ
các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của DN làm ra cũng thỏa
mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất
định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, độ tin
cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm mỹ, các tác động đến
môi trường.

mặc dù sản phẩm có công dụng cũng không có giá trị sử dụng. Giới hạn của giá trị sử
dụng chính là nhu cầu tồn tại về nó.
Ngày nay, có thể nhận thức thuộc tính công dụng không phải là yếu tố duy nhất
tạo nên giá trị sử dụng của sản phẩm. Khi người tiêu dùng mua hàng hóa, thực chất họ
muốn mua cái gì đó hơn là chính bản thân sản phẩm.
Theo P.A.Samuelson: “Giá trị sử dụng là một khái niệm trừu tượng để chỉ tính
thích thú chủ quan, tính hữu ích hoặc một sự thỏa mãn do tiêu dùng hàng hóa mà có.”
Giá trị sử dụng là sự cảm nhận của một cá nhân về sự thỏa mãn nhu cầu và sự thích thú
của mình thông qua việc sử dụng một sản phẩm vật chất hay một dịch vụ.
Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào:
Thuộc tính công dụng của sản phẩm, được tạo ra bởi chất thể của sản phẩm, do
đặc tính kỹ thuật của sản phẩm qui định. Thuộc tính công dụng được gọi là phần cứng
của sản phẩm.
Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng, là những gì mà người tiêu dùng
cảm thấy có nơi sản phẩm, được tạo ra nhờ dịch vụ bán và sau khi bán. Thuộc tính được
thụ cảm bởi người tiêu dùng được gọi là phần mềm của sản phẩm. Nhiều khi người tiêu
dùng mua sản phẩm không đơn thuần vì những đặc tính kỹ thuật và khả năng phục vụ
của sản phẩm mà có thể vì nó làm cho người mua có cảm giác sang trọng phù hợp với
địa vị xã hội của họ hay một cảm giác nào đó mang lại cho khách hàng sự thích thú nào
đó của riêng họ.
Thực tế kinh doanh cho thấy thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng là một
bộ phận quan trọng cấu thành nên giá trị sử dụng của sản phẩm và là yếu tố phải đặc
biệt chú ý khi đưa sản phẩm của mình tham gia thị trường.
Giá trị sử dụng của sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng hàng
cung so với cầu, sức mua, ý muốn sẳn sàng mua...Nếu cung nhỏ hơn cầu, phần mềm của
5
5
sản phẩm tăng lên. Các nhà đầu cơ thường lợi dụng cách nầy để tăng giá sản phẩm trong
thị thị trường độc quyền để thu lợi bất chính. Nếu cung lớn hơn cầu, phần mềm của sản
phẩm giảm đi, đồng thời giá trị sử dụng cũng giảm theo.

động của thời kỳ đó. Do đó giá cả liên quan rất chặt chẽ đến năng suất lao động và cạnh
tranh
Sự can thiệp hợp lí của nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh có
hiệu quả. Hiện tại, Luật cạnh tranh là khuôn khổ pháp lý cao nhất điều chỉnh về cạnh
tranh thương mại tại Việt Nam.
1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh
1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh (hay sức cạnh tranh được sử dụng với nghĩa như nhau trong
đề tài). Thuật ngữ về năng lực cạnh tranh tuy được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có
một khái niệm rõ ràng hay cách thức đo lường năng lực cạnh tranh cả ở cấp quốc gia,
cấp ngành, DN và ở cấp sản phẩm.
6
6
Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản
phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh
tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Theo quan điểm tân cổ điển dựa trên lí thuyết thương mại truyền thống, năng lực
cạnh tranh của ngành được xem xét được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất
và năng xuất. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá
dựa trên chi phí thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế
cạnh tranh mà còn đóng góp tích cực vào nền kinh tế.
Lý thuyết tài chính CN xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dựa trên khả năng
sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà
không có sự tự cấp, đảm bảo cho ngành đứng vững trước các đối thủ khác hay sản phẩm
thay thế.
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực canh
tranh là khả năng tạo ra, duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài
nước. Các chỉ số đánh giá là năng suất lao động, tổng năng suất của các yếu tố sản xuất,
công nghệ, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản
phẩm.

thấy: VN đang ở giai đoạn phát triển thứ nhất, vì chỉ số thể chế xếp thứ 74, kết cấu hạ
tầng thứ 83, kinh tế vĩ mô thứ 53 và y tế, giáo dục cấp một thứ 58. Về giáo dục đại học,
VN xếp thứ 90, mức độ sẵn sàng về công nghệ thứ 85. Ở hai trụ cột còn lại, VN xếp thứ
86 về trình độ kinh doanh và thứ 75 về đổi mới và sáng tạo. Kết quả xếp hạng năm 2006
của WEF có thể chưa phản ánh hết những nỗ lực cải cách của VN năm 2006, như việc
Luật DN và Luật Đầu tư bắt đầu có hiệu lực thi hành cũng với nhiều cải cách khác trong
kinh tế theo hướng thị trường, nhưng cũng là những cảnh báo để chúng ta chú ý, vì
trong khi Việt Nam có tiến bộ trong đổi mới thì các nước cũng có những cải cách nhanh
hơn, do đó vị trí Việt Nam trong xếp hạng chưa được cải thiện.
Năng lực cạnh tranh cấp ngành:
Khả năng cạnh tranh có thể được đánh giá bằng các chỉ số định lượng như: Tỷ lệ
bảo hộ hữu hiệu và lợi thế so sánh biểu hiện. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
chỉ số ERP giúp chúng ta xác định được các ngành nào sẽ có lợi thế và bất lợi thế do
những thay đổi CS liên quan đến tự do hoá thương mại. Chỉ số RCA càng cao thì mặt
hàng càng có lợi thế cạnh tranh, nếu RCA <1 thì mặt hàng không có lợi thế so sánh, nếu
1 < RCA < 2,5 thì mặt hàng có lợi thế so sánh và RCA > 2,5 thì mặt hàng có lợi thế cạnh
tranh cao. Kết quả nghiên cứu của nhóm kỹ thuật.
Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của ngành trong nước tạo thành năng lực
cạnh tranh của quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của ngành bị hạn chế bị hạn chế khi
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa mà ngành
sản xuất ra thấp.mặt khác, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia thể hiện qua môi trường
cạnh tranh, cạnh tranh trong nước và quốc tế, đặc biệt là trong WTO hiện nay. Trong đó,
các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế các CS kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành, DN, và sản phẩm hàng hóa quốc
gia đó.
Tóm lại một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có “năng lực duy trì được lợi nhuận
và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
án, chỉ tập trung nghiên cứu khả năng cạnh tranh ngành, DN và sản phẩm.
Trong thực tế, quá trình điều chỉnh của ngành diễn ra cùng với những biến đổi về
môi trường cạnh tranh kinh tế nói chung. Khả năng cạnh tranh của ngành phụ thuộc vào

lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một DN nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những
yêu cầu của khách hàng. Thường thì DN có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt
khác. Vần đề cơ bản là, DN phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những
điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những
điểm mạnh và điểm yếu bên trong một DN được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt
động chủ yếu của DN như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị,
hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một DN, cần phải
xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động
khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các DN hoạt
động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá
năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh
giá năng lực cạnh tranh của một DN bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ, chất lượng
sản phẩm và bao gói, kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc
tiến thương mại, năng lực nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của DN, trình
độ lao động, thị phần sản phẩm DN và tốc độ tăng trưởng thị phần, vị thế tài chính,
năng lực tổ chức và quản trị DN nhưng trong để tài chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh
dưới 3 loại cạnh tranh cơ bản:
Cạnh tranh bằng giá trị sử dụng (chất lượng, tính năng, mẫu mã,..). Để phát triển,
các DN phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm - hàng
hóa - dịch vụ, đồng thời không ngừng nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới, tạo ra những
đặc trưng khác biệt của sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ để thoả mãn tốt nhất nhu cầu
khách hàng, nhằm duy trì và mở rộng thị trường. Các đặc điểm trên đã làm cho chất
lượng trở thành một yếu tố cạnh tranh hàng đầu. Nhiều công ty đã chuyển vốn đầu tư
vào các khu vực có khả năng thoả mãn khách hàng và đem lại lợi nhuận cao. Sản phẩm
có thể được thiết kế tại một nước, sản xuất tại một số nước khác và bán ở mọi nơi trên
thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng, các công ty thành công trên thương trường đều là
những công ty đã nhận thức và giải quyết tốt bài toán chất lượng. Sự phát triển của khoa
học và công nghệ ngày nay đã tạo cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanh nhạy bén tận
9

Materials : vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư,
nguyên nhiên vật liệu của DN.
Trong 4 yếu tố trên, con người được xem là yếu tố quan trọng nhất.
Các nhân tố bên ngoài DN: môi trường kinh doanh (tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ
lệ lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối doái, các CS tài khóa và tiền tệ...), Chính trị và pháp luật
(kinh tế luôn đi đôi với chính trị, nếu có được một môi trường chính trị và pháp luật ổn
định sẽ thúc đẩy các ngành, các DN yên tâm đầu tư và phát triển), khoa học công nghệ
(ngày nay đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, CN sinh học,
CN chế tạo... các ngành, các DN luôn phải đặt yếu tố này lên hàng đầu).
Các nhân tố bên trong DN: đó là các nhân tố về sản xuất như đối tượng lao đọng,
lực lượng lao động, cung cấp lao động.
Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các
năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và tính dị biệt của sản
phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, DN cần xác định được lợi thế của mình mới
có thể giành thắng lợi. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh:
10
10
Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các
yếu tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động, thường được xem là nguồn lực để tạo lợi
thế cạnh tranh.
Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho
người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi
sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn
đối thủ.
Năng lực cạnh tranh ở cấp sản phẩm:
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó
so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và
nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để
tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu

Kết quả cho thấy, với việc áp dụng đồng bộ 3 giải pháp (giá cả, thiết kế, độ bền)
11
11
thì sản phẩm đã đạt được sức cạnh tranh cần thiết. Nhưng rõ ràng là, nếu không thay đổi
công nghệ sản xuất thì DN cũng khó đảm bảo vững chắc thị phần của mình trên thị
trường. Nhưng, thay đổi công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn cũng là bài toán không hề
đơn giản.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kinh tế cùng một lúc (giá cả, thiết kế, độ bền và
công suất), có thể đạt được kết quả rất khả quan, làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Nhưng cũng cần phải lưu ý, cải tiến thiết kế, tăng độ bền, tăng công suất máy móc thiết
bị, tất cả điều này đều dẫn đến việc tăng giá thành, làm giảm tỷ suất lợi nhuận của DN.
Do đó, việc tính toán chi phí sản xuất và CS giá cả hợp lý là đặc biệt cần thiết đối với
DN trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Các chi phí cơ bản là: nguyên, nhiên
vật liệu, khấu hao tài sản cố định, thu nhập của người lao động, các chi phí quản lý...
Việc đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết, giúp nhà sản xuất
biết rõ sản phẩm của ta đang đứng ở đâu, sức cạnh tranh như thế nào so với đối thủ... Từ
đó, có chiến lược phát triển phù hợp, đầu tư vào các sản phẩm có khả năng cạnh tranh
thì mới đảm bảo thị phần bền vững của DN trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, việc
lựa chọn đúng phương pháp đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm có ý nghĩa thực tiễn
rất lớn.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản: các yếu
tố nội tại của sản phẩm như năng lực sản xuất, giá cả, chất lượng, thị trường tiêu thụ,
các yếu tố bên trong DN như trình độ nhân lực, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, uy
tín thương hiệu, các yếu tố bên ngoài DN như điều kiện về các nhân tố sản xuất, điều
kiện về cầu thị trường, vai trò của Nhà nước, yếu tố hội nhập...
1.1.4. Lí luận về cạnh tranh
1.1.4.1. Quan điểm của Porter
Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả các
ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên thương trường
kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó.

Lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó
của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điều kiện tự
nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được
coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên đây mới chỉ là cơ sở cho
một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho sự thành
công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia
tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh
doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho DN.
Chẳng hạn, các nước nổi tiếng về du lịch như Ý và Thái Lan đã tận dụng lợi thế so
sánh về thiên nhiên và các công trình văn hoá di tích lịch sử để phát triển NCN không
khói này rất thành công và hiệu quả. Tuy nhiên, họ thành công không phải chỉ dựa vào
những di sản văn hoá và thiên nhiên ban cho, mà vì họ đã tạo ra cả một nền kinh tế phục
vụ cho du lịch với rất nhiều dịch vụ gia tăng kèm theo, từ dịch vụ khách sạn, nhà hàng,
lễ hội đến các dịch vụ vui chơi giải trí, các trung tâm mua sắm và các chương trình tiếp
thị toàn cầu. Điều đó đã tạo cho họ có lợi thế cạnh tranh quốc gia mà các nước khác khó
có thể vượt trội. Việt Nam có lợi thế so sánh trong ngành du lịch với một quần thể di sản
thiên nhiên và văn hoá độc đáo ở cả 3 miền của đất nước, nhưng muốn có lợi thế cạnh
tranh quốc gia để giành ưu thế trên thương trường quốc tế, Việt Nam cần có sự phối kết
hợp hài hoà một hệ thống cung cấp giá trị gia tăng theo “các viên đá tảng kim cương của
Porter”, những hoạt động giải quyết thị trường đầu ra, thị trường đầu vào cung cấp các
hoạt động cần thiết cho ngành du lịch, như cung cấp đồ ăn thức uống, dịch vụ vui chơi
giải trí và các ngành hỗ trợ, như giao thông cầu đường, các ngành vận tải đường sông,
đường bộ, hàng không, đến ngành quảng cáo... tạo ra sự liên kết chặt chẽ. Đây là những
mối quan hệ tương hỗ cơ bản tạo ra giá trị gia tăng của ngành. Sự hợp tác càng hiệu quả
bao nhiêu thì năng suất lao động của ngành càng cao bấy nhiêu và là cơ sở tạo ra lợi thế
cạnh tranh của ngành và quốc gia.
Dưới góc độ kinh tế, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng
hoá hoặc dịch vụ nhất định. Nếu như các sản phẩm trên thị trường có thể thay thế hoàn
toàn cho nhau (giống hệt nhau) thì người tiêu dùng có thể lựa chọn bất cứ DN nào trong
số các DN đang cung cấp sản phẩm trên thị trường. Lúc này, mỗi nhà cung cấp đều phải

(iii) Nhực tế sinh động còn cho thấy, sự tăng nhu cầu đối với một sản phẩm diễn
ra đồng thời với sự tăng giá của sản phẩm khác không có nghĩa là sự tăng cầu chỉ chịu
duy nhất một tác động từ việc giá tăng nói trên.
Những yếu tố như sự thay đổi thói quen tiêu dùng, những biến động thị trường,
thậm chí là những tin đồn thất thiệt… cũng có thể là những nhân tố tác động trực tiếp
đến nhu cầu thị trường.
Do đó, Marshall cũng đã khuyến cáo những người sử dụng lý thuyết này cho thực
tiễn phải xem xét đến các yếu tố khác đồng thời với việc tính toán độ co giãn của cầu
như: thời gian có sự tăng giá, số lượng sản phẩm nằm trong phạm vi có thể thay thế, khả
năng cung của thị trường (kể cả khả năng cung tiềm năng)….
Luật cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam quy định thị trường liên quan bao gồm thị
trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Trong đó, (1) “Thị trường sản
phẩm liên quan là thị trường của những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về
đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả, (2) Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa
lý cụ thể trong đó có những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện
cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận”. Về cơ bản,
cách thức nhận dạng thị trường liên quan của luật cạnh tranh ở Việt Nam giống với các
nước khác.
1.1.5. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành
14
14
Chỉ số về năng suất: Michel Porter, người mở ra môn học chiến lược và lợi thế
cạnh tranh của Trường đại học Harvard (Mỹ), trong tác phẩm nổi tiếng nhất về cạnh
tranh: “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” đã cho rằng lợi thế cạnh tranh quốc gia cần được
xem xét trên góc độ năng suất, vì đây là nhân tố cơ bản cho việc tăng sức mạnh cạnh
tranh quốc gia trong dài hạn.
Chỉ số về công nghệ: Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao
gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng, số kỹ sư và nhà khoa học
trên một triệu dân, tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn
đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Cho đến cuối

những người lính tiên phong xây dựng Năng lực cạnh tranh của quốc gia trong khi các
DN nhỏ góp phần ổn định nền kinh tế, giảm nhẹ các nguy cơ do toàn cầu hóa mang đến
cho nền kinh tế đó. Phát triển quan hệ hợp tác giữa các DN lớn và các DN nhỏ là một
giải pháp có ý nghĩa chiến lược trong việc tăng cường Năng lực cạnh tranh của cộng
đồng DN Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung trong thời gian
15
15
tới.
Chỉ số về các điều kiện về nhu cầu: Nhu cầu của con người trong tính đa dạng,
phong phú có thể coi là vô cùng, nhưng trong tính đơn nhất lại có giới hạn. Vì vậy, khi
đầu tư phải xem xét dung lượng thị trường của sản phẩm, phải dự báo được nhu cầu và
sự thay đổi nhu cầu. Nếu dung lượng thị trường bị giới hạn, dù sản phẩm có khả năng
cạnh tranh vẫn khó có khả năng mở rộng, vì sẽ có nguy cơ bị áp đặt các biện pháp
chống bán phá giá, hoặc các biện pháp tự vệ. Khi tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường còn nhỏ
nhưng dung lượng thị trường còn lớn và tốc độ chiếm lĩnh thị trường đang tăng lên, tức
là sản phẩm có khả năng cạnh tranh, có thể mở rộng sản xuất.
Chỉ số về lợi nhuận: Mục tiêu hàng đầu của DN là lợi nhuận, trong quá trình tự tổ
chức và cạnh tranh vì lợi nhuận của các DN tư bản, xã hội sẽ được lợi hơn và xã hội sẽ
tiến nhanh về phía trước hơn là hình thái đặt mục tiêu trực tiếp thoả mãn các quyền lợi
của xã hội lên trên quyền lợi của các DN. Đây là luận điểm mà đại diện là Adam Smith
ông tổ của kinh tế học tư bản chủ nghĩa và đã phần nào được chứng thực bằng thực tế.
Kinh tế thị trường là cạnh tranh, không còn độc quyền nữa, và chỉ có cạnh tranh mới
đem lại sáng tạo, thực tiễn, hàng có phẩm chất cao, giá rẻ, có người tiêu thụ nhiều, đem
lợi nhuận lại cho người sản xuất.
Chỉ số về thị phần: Thị phần DN là một trong những cơ sở để xác định các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, xác định DN, nhóm DN có vị trí thống lĩnh trên thị
trường, xác định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và là căn cứ quan trọng để
được hưởng miễn trừ đối với tập trung kinh tế.
Theo Luật Cạnh Tranh của Việt Nam việc xác định Thị phần sẽ không có sự phân
biệt giữa DN nhà nước hay DN tư nhân và sẽ được căn cứ trên doanh số đối với một

được một định nghĩa thống nhất. Mỗi quốc gia có cách hiểu về lĩnh vực này khác nhau.
Còn ở VN, dự thảo Luật công nghệ thông tin từng đưa ra khái niệm CN nội dung số
nhưng không nói rõ nó gồm những lĩnh vực gì. Tuy nhiên, quan điểm của Bộ Bưu chính
Viễn thông thì cho rằng đây là ngành thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối,
phát hành các sản phẩm nội dung số và dịch vụ liên quan. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực
như: tra cứu thông tin, dữ liệu số, giải trí số, nội dung giáo dục trực tuyến, học tập điện
tử, thư viện và bảo tàng số, phát triển nội dung cho mạng băng rộng, mạng di động
3G....
Công nghệ phần mềm là sự vận dụng thực tế của những kiến thức khoa học trong việc
thiết kế, cấu tạo của phần mềm cũng như những tài liệu liên quan trong việc phát triển, hoạt
động và bảo dưỡng của nó. Công nghệ phần mềm bao gồm những kiến thức và ứng dụng của
những nguyên tắc, phương pháp và công cụ cho kỹ thuật, quản lý sự phát triển phần mềm.
CN hỗ trợ là NCN sản xuất những linh kiện phụ tùng... cung cấp cho các nhà lắp
ráp - DN sản xuất chính - để họ hoàn thiện sản phẩm cuối cùng trước khi bán ra thị
trường. Ở các nước có nền công nghiệp phát triển, không bao giờ một chiếc ô tô, xe
máy... lại do một nhà máy sản xuất ra, mà có sự phân công cho những nhà sản xuất "vệ
tinh" chuyên sản xuất một số linh kiện, phụ tùng nhất định.
1.2.2. Phân loại
Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia ngành CNĐT ra thành nhiều ngành
nhỏ, đề tài chỉ phân loại và phân tích ngành CNĐT theo:
Thiết bị điện tử dân dụng: các thiết bị tiêu dùng trong đời sống sinh họat gia đình
như radio, tivi. Radio cassette, đầu video...ở một số quốc gia coi một số loại máy tính cá
nhân là thiết bị điện tử dân dụng, vì thị trường tiêu thụ có một tỷ trọng lớn sử dụng
chúng thực sự là dân dụng.
Thiết bị điện tử CN là các thiết bị dùng trong CN.
Thiết bị tin học: máy tính, các thiết bị ngoại vi và các phần mềm.
Thiết bị viễn thông: tất cả các thiết bị điện tử dùng để liên lạc, trao đổi, truyền tin
từ xa gồm cả phần cúng và phần mềm.
Điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông là 3 lĩnh vực CN riêng nhưng lại có mối
liên hệ với nhau nhưng thường được nghiên cứu, đánh giá chug trong cùng một góc độ

giải pháp vĩ mô và vi mô là đòi hỏi khách quan. Đồng thời vấn đề này cũng liên quan
trực tiếp và rất cấp thiết đối với các DN của NCN điện tử Việt Nam đang hoạt động và
những DN sẽ hình thành trong tương lai, tạo nên những mối quan hệ kinh tế mới giữa
Việt Nam và nền kinh tế thế giới.
Với sự phát triển của ngành Công nghệ thông tin trên thế giới hiện nay cùng với
tầm quan trọng của nó trong sản xuất và đời sống, không thể không định hướng cho
NCN này cho tương lai mặc dù cho tương lai xa. Ngành công nghệ thông tin là một
ngành nghề còn mới đối với nước ta.
Sự phát triển của NCN công nghệ thông tin mang tính đặc thù của một NCN trí
thức và chất xám, do đó định hướng những năm sau năm 2020 tỷ trọng NCN này ngày
càng được nâng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong NCN.
Với sự phát triển của CNĐT đã đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc
gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Cuộc cách mạng điện tử thông tin cùng
với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội, đưa xã hội loài người chuyển mạnh từ xã hội CN sang xã hội thông
tin, từ kinh tế CN sang kinh tế tri thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin. Nhân loại đang bước
vào một thời đại mới, thời đại của xã hội thông tin và kinh tế tri thức, được hình thành
trên cơ sở phát triển và ứng dụng rộng rãi CN thông tin.
Để phát triển kinh tế tri thức, CNĐT là một trong những động lực quan trọng nhất của
sự phát triển, là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự phát triển kinh tế-xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. CNĐT được ứng
dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
18
18
cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, phong cách sống, học tập và làm việc của con người.
CNĐT góp phần tạo ra nhiều ngành nghề mới, làm thay đổi sâu sắc các NCN hiện tại, tăng
khả năng cạnh tranh của các NCN truyền thống. Tại nhiều quốc gia, CNĐT đã trở thành
ngành kinh tế chủ đạo có tốc độ tăng trưởng rất cao, tạo ra nhiều việc làm. Việc ứng dụng
CNĐT trong các hoạt động quản lý nhà nước sẽ giúp cho quá trình ra quyết định được thực

nhiều ngành kinh tế khác.
CNĐT cần một lượng vốn lớn để đầu tư cho sản xuất, thiết kế sản phẩm, nghiên
cứu triển khai, đổi mới công nghệ và một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
cao. Do đặc tính kế thừa và bảo mật cao về công nghệ trong sản xuất, nên hầu hết các
sản phẩm điện tử nổi tiếng thế giới đều thuộc các nhà sản xuất có tiềm lực lớn về vốn,
công nghệ và nhân lực. Đó là những tập đoàn kinh doanh xuyên quốc gia như Fujitssu,
Matsushita, Sanyo, LG, Sony... nắm quyền chi phối phần lớn thị trường.
Trong sản xuất, luôn có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các hãng trong việc tạo ra các
sản phẩm mới, làm cho công nghệ sản xuất luôn thay đổi với tốc độ nhanh. Cùng với sự
19
19
cạnh tranh gay gắt giữa các tập đoàn kinh tế, nhiều tập đoàn và hãng lớn trên thế giới
vẫn phải tìm cách liên kết, hợp tác với nhau thành từng nhóm, từng khu vực và lập nên
những mạng lưới sản xuất, kinh doanh mang tính toàn cầu.
Những năm gần đây, do lợi nhuận cao và do tầm chiến lược của CNĐT đối với nền
kinh tế, nhiều nước đã đổ xô vào phát triển CNĐT, dẫn đến khủng hoảng thừa các sản
phẩm điện tử thông dụng. Tuy nhiên, về lâu dài thị trường hàng điện tử thế giới vẫn
rộng mở không ngừng cho các sản phẩm công nghệ cao, hiện đại, có những tính năng
mới, nổi trội, thông minh. Chu kỳ sống của sản phẩm điện tử ngày ngày rút ngắn, sản
phẩm điện tử mang tính hiện đại, mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc và vật liệu chế tạo
thường xuyên thay đổi nhằm thích nghi, đáp ứng được tính hiếu kỳ và luôn đổi mới của
khách hàng, nhất là điện thoại, computer, tivi... Cùng với những đặc điểm và sản phẩm,
người tiêu dùng rất quan tâm đến chất lượng và giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá sản
xuất cũng thường xuyên thay đổi theo hướng giảm xuống, bản thân sản phẩm cũng
nhanh chóng trở nên lạc hậu.
Quá trình phát triển của CNĐT thế giới là xu hướng chuyển dịch đầu tư từ khu vực
kinh tế phát triển sang khu vực kinh tế kém phát triển hơn do có sự chuyển dịch về lợi
thế so sánh. Đầu tiên là từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu sang các nước
phát triển ở trình độ thấp hơn như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo... và gần
đây là các nước ASEAN, Trung Quốc.

Trong thị trường thiết bị tin học, máy tính chiếm tỷ trọng lớn nhất. Xu hướng tập
trung hoá cao là đặc điểm của lĩnh vực sản xuất máy tính. Hiện nay, 3 hãng Compaq,
IBM, Dell Computer chiếm tới 30% doanh thu trên thị trường máy tính toàn cầu.
Châu Á đang trở thành trung tâm của NCN máy tính, do có ưu thế về chi phí sản
xuất thấp. Hầu hết các hãng sản xuất máy tính lớn đã thiết lập nhà máy lắp ráp máy tính
tại các nước Tây Âu và Mỹ. Xu hướng chung của máy tính là nhỏ hơn, rẻ hơn, tiện lợi
hơn và nhanh hơn. Để đáp ứng yêu cầu này, các hãng sản xuất máy tính đang chuyển
sang sản xuất theo đơn đặt hàng, hạn chế các trung gian, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
người tiêu dùng. Mỹ là nước cung cấp tới 90% tổng lượng CPU toàn thế giới, nên đang
giữ vai trò chi phối thị trường máy tính thế giới.
Doanh số bán máy tính toàn cầu có tốc độ tăng 11,6%/năm giai đoạn 1995-2000,
từ 125 lên 216 tỷ USD. Máy tính xách tay là một trong những sản phẩm có tỷ trọng tiêu
thụ cao nhất trong nhóm thiết bị tin học, chiếm 33% tổng tiêu thụ máy tính ở Mỹ và
20% ở Tây Âu. Những năm qua, mức tăng tiêu thụ cao nhất là các máy chủ (Server)
xuất phát từ nhu cầu phát triển công nghệ thông tin, các hệ thống mạng nội bộ và dịch
vụ Internet. Mỹ vẫn là thị trường tiêu thụ PC lớn nhất, chiếm 40-45% tiêu thụ toàn cầu,
Nhật Bản và Tây Âu chiếm 20-25%. Tỷ trọng tiêu thụ ở các nước châu Á-TBD những
năm gần đây có xu hướng tăng mạnh.
Trên thị trường linh kiện điển tử cũng đang có sự dịch chuyển sản xuất từ khu vực
kinh tế phát triển sang khu vực có kinh tế chậm phát triển hơn. Một bộ phận cơ bản của
thị trường linh kiện điển tử là linh kiện bán dẫn. Một đặc trưng của ngành sản xuất linh
kiện bán dẫn là tính tập trung cao. Do đó đòi hỏi vốn đầu tư lớn cho nghiên cứu, thiết
kế, chế tạo, nên chủ yếu được sản xuất tại các nước phát triển, còn lắp ráp được thực
hiện ở các nước khác.
Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm trong 5 năm 1998-2002 tăng trung bình 13%/năm.
Buôn bán sản phẩm điện tử là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh nhất trong 20
năm qua, từ 500 tỷ USD năm 1992 lên 1 nghìn tỷ USD năm 2002.
Những tiến bộ về công nghệ và sự thay đổi về yêu cầu đối với máy tính (yêu cầu
về lưu trữ giảm đi, trong khi yêu cầu về tính tiện dụng tăng lên). Vì thế, các nhà sản xuất
đang hướng tới việc thay thế các máy tính cồng kềnh bằng các thiết bị nhỏ gọn hơn

Nhật là nước đứng thứ hai sau Mỹ. Các nước ASEAN và các nước Châu Á xung
quanh ta cũng có xu hướng phát triển mạnh NCN này. ở nước ta ngành điện tử-tin học
tuy mới phát triển nhưng có tốc độ nhanh (trên 20%/năm), lợi thế của Việt Nam là giá
nhân công chỉ bằng 15-20% so với các nước trong khu vực ASEAN.
1.1.2. Nhận xét đánh giá về tình hình sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm điện tử
trên toàn thế giới
Thị trường hàng điện tử thế giới đang phát triển với nhịp độ nhanh và thường hay
biến động. Mỗi mặt hàng, nhóm hàng cũng như mỗi khu vực thị trường có những đặc
trưng khác biệt, có thể nêu lên một số đặc trưng chủ yếu của thị trường hàng điện tử thế
giới như sau:
Về thị trường: Thị trường hàng điện tử thế giới đã có sự phân công sản xuất và
phân chia thị trường ở mức độ rất sâu và rất cao. Với ưu thế về vốn và công nghệ, các
nước CN phát triển - Mỹ, Nhật Bản - đang chi phối thị trường hàng điện tử thế giới
thông qua việc khống chế sản xuất và XK linh kiện điện tử cũng như nghiên cứu triển
khai các sản phẩm mới. Các nước đang phát triển NK linh kiện và nhận chuyển giao
công nghệ, đồng thời sản xuất, XK lại các sản phẩm điện tử thành phẩm.
Các nước có NCN điện tử phát triển nhanh đều tập trung ở Châu Á như Hàn Quốc,
Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia... Những kinh nghiệm phát triển thành
công NCN và thị trường hàng điện tử của các nước này là những bài học tốt cần tham khảo
khi đề ra phương hướng và CS phát triển thị trường hàng điện tử của Việt Nam.
Về mặt hàng: Tiêu thụ thiết bị điện tử chuyên dụng, thiết bị tin học trong cơ cấu
tiêu thụ hàng điện tử có xu hướng tăng trong khi tiêu thụ thiết bị điện tử dân dụng giảm
đi, đặc biệt là ở các nước phát triển. Các nước đang phát triển vẫn có tốc độ tăng tiêu
thụ thiết bị điện tử dân dụng cao, chủ yếu là các sản phẩm thế hệ thứ hai với giá rẻ.
Samsung đang dẫn đầu thế giới về sản xuất con chíp, màn hình phẳng LCD và tivi màu.
Samsung cũng đang cạnh tranh quyết liệt với Motorola để trở thành nhà sản xuất điện
thoại di động thứ hai thế giới.
22
22
Hầu như không có một tuần lễ nào trôi qua mà Samsung không công bố một sản

lượng thuê bao Internet băng rộng là 11,3 triệu. Tại Hàn Quốc, Internet đã được phổ cập
tới hơn 90% dân số. Khoảng 20% trong tổng số gần 50 triệu dân Hàn Quốc tham gia các
lớp tin học dưới nhiều hình thức. Trẻ em Hàn Quốc hiện nay làm quen với máy tính
ngay khi biết đọc, biết viết. Nhiều người có thói quen sử dụng mạng để thu nhập thông
tin, mua sắm, giải trí.
Với việc mở cửa thị trường, Hàn Quốc có nhiều DN tham gia vào việc cung cấp
các dịch vụ viễn thông và CNTT. Các DN mới tập trung đầu tư phát triển thị trường
trong lĩnh vực thông tin di động và truy cập Internet băng rộng. Nếu trong lĩnh vực điện
thoại di động, công ty KT chiếm thị phần gần tuyệt đối là 87,9% trong khi các công ty
như Hanaro chiếm 6,6%, Thrunet chiếm 2,8% và các công ty còn lại chiếm 2,6% (cần
lưu ý là khách hàng sử dụng dịch vụ điện thoại cố định chỉ chiếm 48,8% trong tổng số
35 triệu thuê bao ở Hàn Quốc, nghĩa là chưa đến 25 triệu thuê bao sử dụng điện thoại cố
định) thì tỷ lệ thị phần trong lĩnh vực thông tin di động và Internet băng rộng có sự phân
23
23
bố khác hẳn. Trên thị trường thông tin di động, KT chỉ chiếm 54% tỷ lệ thị phần, SK
chiếm 31,6% và LG chiếm 14,4%. Với Internet băng rộng: KT chỉ còn chiếm 48,6% tỷ
lệ thị phần, 26,5% thị phần là của Hanaro, Thrunet có 11,5% thị phần và các công ty
khác chiếm 13,4% thị phần còn lại.
Để phát triển CNTT, đặc biệt là các dịch vụ thông tin băng rộng, chính phủ đã đẩy
mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tuyên truyền giáo dục cho người dân thấy ích lợi và biết
sử dụng Internet, thực hiện các CS khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Các dịch vụ
thông tin băng rộng thường phát triển mạnh ở những khu đô thị nơi có mật độ dân cư
cao, đối với các khu vực nông thôn với địa bàn rộng lớn thì các modem tốc độ thấp
thường được sử dụng phổ biến hơn. Để tăng số lượng thuê bao, việc tiếp thị giới thiệu
các dịch vụ là rất cần thiết, đồng thời việc cung cấp nội dung phong phú có vai trò hết
sức quan trọng. Kế hoạch phát triển CNTT của Hàn Quốc trong thời gian hiện nay là:
tiếp tục triển khai dịch vụ WCDMA ở khu vực đô thị Seoul và xung quanh, dịch vụ
Internet vô tuyến 2,3 GHz (năm 2005), truyền hình số băng rộng phủ sóng toàn quốc
(năm 2006)...Trong chiến lược phát triển CNTT, Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến kế

24
Độ đã thực hiện CS mở cửa nhằm thu hút các công ty CNTT lớn trên thế giới vào xây
dựng cơ sở vật chất tại 7 khu công nghệ cao, đựợc phân bố trên khắp cả nước với những
ưu đãi đặc biệt như: Cung cấp đầy đủ hạ tầng cơ sở, miễn thuế NK, thuế doanh thu
trong 5 năm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và có quyền chuyển lợi nhuận về
nước. Thứ hai, theo báo cáo của WB, khả năng của các kỹ sư Ấn Độ dễ thích nghi với
những biến đổi kỹ thuật liên tục trong CNTT. Thứ ba, sức mạnh của nền khoa học: Là
một nước có nhiều người nói tiếng Anh, có hệ thống các trường đại học tuyệt vời với 5
học viện công nghệ quốc gia, được trang bị hiện đại cùng với mạng lưới 1.200 trường
đại học và cao đẳng kỹ thuật nằm rải rác khắp toàn quốc, hàng năm, Ấn Độ đào tạo trên
55.000 kỹ sư, trong đó có nhiều kỹ sư thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin. Nhiều nhà
khoa học về máy tính của Ấn Độ giữ vị trí lãnh đạo trong các công ty hàng đầu của thế
giới. Đến nay, Ấn Độ có khoảng 4 triệu cán bộ khoa học, đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ.
Nhiều kỹ sư tốt nghiệp các trường đại học lớn ở Ấn Độ đã bị lôi kéo ra nước ngoài làm
việc. Đây là thiệt hại cho Ấn Độ, nhưng điều này đồng thời cũng chứng minh một thực
tế là, các kỹ sư Ấn Độ thích nghi nhanh với những biến đổi kỹ thuật trong CNTT. Họ
nhanh chóng chuyên môn hóa các loại dịch vụ đặc biệt như: bảo trì từ xa và sửa chữa
kịp thời các mạng thông tin trên thế giới; Tham gia trực tiếp vào các mạng thông tin của
các khách hàng lớn như Citibank, Dautsche Bank, British Airway, American Express,
Reekbok, France…; Các chuyên gia Ấn Độ có khả năng sáng tạo, sản xuất phần mềm,
chuyên môn hóa trong các ngành quản lý, phân phối, ngân hàng, làm dịch vụ trong nước
và XK.
Để đẩy mạnh việc sử dụng mạng thông tin quốc tế, kinh doanh qua mạng điện tử
và thúc đẩy sự phát triển các cơ quan kinh doanh bằng trí tuệ, năm 1999, Ấn Độ đã
thành lập Bộ Công nghệ thông tin thay thế Cục Công nghệ thông tin và điện tử. Bộ
Công nghệ thông tin Ấn Độ đã đề ra kế hoạch hành động tổng thể, nhằm đưa Ấn Độ
thành một siêu cường quốc về CNTT. Bộ trưởng Bộ Công nghệ thông tin Ấn Độ cho
biết, chủ trương cải cách của Chính phủ Ấn Độ là tập trung vào việc sử dụng mạng
thông tin quốc tế, sử dụng ngôn ngữ Ấn Độ, thúc đẩy các dịch vụ và đào tạo cán bộ về
CNTT, khai thác thương mại điện tử và các xí nghiệp sản xuất thông tin quốc tế.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status