Nghiên cứu tuyển chọn một số giống cà chua và đề xuất vật liệu che tủ phù hợp cho sản xuất cà chua tại Việt Trì Phú Thọ - Pdf 24

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) thuộc họ cà Solanaceae, là loại
rau ăn quả thông dụng, quan trọng, sức tiêu thụ lớn và có giá trị dinh dưỡng cao.
Quả cà chua không những được dùng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn được
bảo quản lâu qua các dạng khác nhau (như mứt, tương cà chua…) nhưng vẫn giữ
được hương vị đặc trưng, phẩm chất. Với đặc tính đó mà cây cà chua góp
phần tích cực trong việc cung cấp nguồn thực phẩm để không ngừng nâng cao
đời sống của người dân. Phát triển quả cà chua phục vụ cho ăn tươi và chế
biến đóng hộp đã và đang được sản xuất, quan tâm và phát triển mạnh. Cà
chua là loại rau quả chủ lực được nhà nước ta xếp vào nhóm cây ưu tiên phát
triển.
Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực trung du, miền núi phía Bắc có điều kiện tự
nhiên, khí hậu khá thuận lợi cho sự phát triển cây cà chua. Tuy nhiên, bộ giống cà
chua chúng ta đang sử dụng phần lớn là nhập nội, khả năng thích ứng của từng
giống với khí hậu các vùng, mùa vụ khác nhau, vì vậy năng suất, chất lượng cà
chua vẫn chưa được như mong muốn. Do vậy, việc tìm ra các giống cà chua có
năng suất cao, chất lượng tốt đồng thời phối hợp được khả năng chống chịu với
các điều kiện bất thuận của môi trường, với sâu bệnh hại là cần thiết.
Theo FAO, diện tích trồng cà chua trên toàn thế giới năm 2009 là
4.393.000 ha với sản lượng 152.296.000 tấn, đứng đầu trong các loại rau trồng
trên toàn cầu[4]. Ở nước ta cà chua được trồng trên diện tích hẹp (24.160 ha), sản
lượng thấp (472.569 tấn), mức tiêu thụ bình quân đầu người chỉ đạt
5,6kg/người/năm, trong khi bình quân thế giới là 17 kg. Để đạt được năng suất
cao thì phải có bộ giống cà chua có năng suất cao, chất lượng tốt và các biện pháp
thâm canh thật phù hợp. Mục tiêu của các biện pháp thâm canh là vừa tăng năng
suất, chất lượng đồng thời bảo vệ cải tạo môi trường nhằm đảm bảo lợi ích lâu
dài. Trong đó sử dụng vật liệu che tủ là biện pháp đơn giản, dễ thực hiện và mang
lại hiệu quả thiết thực, lâu dài cả về kinh tế và môi trường sinh thái.
1
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

Cà chua là loại rau ăn quả quý được sử dụng rộng rãi trên thế giới hơn 150
năm qua. Trong quả chín có nhiều chất dinh dưỡng như đường, vitamin A,
vitamin C và các chất khoáng quan trọng Ca, Fe, P, K, Mg…
Cà chua còn được sử dụng về mặt thẩm mỹ và y học: cà chua có thể dùng
để chống tiêu chảy, chữa bỏng nắng, giảm đau, làm lành vết thương, cà chua còn
làm thuốc tăng lực, bổ gan và chống xơ gan. Sử dụng cà chua hàng ngày giúp ta
tiêu hoá khi ăn nhiều mỡ động vật, trứng, pho mát… phòng được bệnh xơ cứng
thành mạch. Phụ nữ dùng quả cà chua đắp mặt hàng ngày làm cho da mặt căng
sáng, không nếp nhăn, chống lão hoá [16].
Cũng theo tác giả này, trong quả cà chua còn có nhiều aminoaxit (trừ
Triptophan), giá trị dinh dưỡng cà chua rất phong phú. Mỗi ngày chỉ cần sử dụng
100 - 200g cà chua sẽ thoả mãn nhu cầu vitamin cần thiết và các chất khoáng chủ
yếu. Lycopen có trong cà chua là chất chống oxy hoá tự nhiên liên quan tới
vitamin A đã được chứng minh có khả năng ngăn ngừa bệnh ung thư tuyến tiền
3
liệt, là chất có khả năng ngăn ngừa các gốc tự do gây ung thư.
Cà chua còn dùng để tăng hương vị của các món ăn thêm hấp dẫn, cà chua
có thể được chế biến thành nhiều loại khác nhau như cà chua cô đặc, nước cà chua,
cà chua nguyên quả đóng hộp, cà chua muối, dầm dấm, làm xalát, mứt [7].
Cà chua là cây rau có giá trị kinh tế cao, nó còn là mặt hàng xuất khẩu của
nhiều nước trên thế giới. Tuỳ theo đặc điểm của từng vùng sinh thái, tuỳ mùa vụ,
một sào Bắc Bộ có thể cho thu nhập 1 đến 2 - 3 triệu đồng [6].
Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc Gia (2006), cà chua trái vụ ở Thực
Đạt (Hải Dương) trừ chi phí thu 3 - 5 triệu/sào (80 triệu đồng/ha). Có thể nói cà
chua đã trở thành cây xoá đói, giảm nghèo cho người dân nơi đây.
2.3. Phân loại thực vật
Cà chua thuộc họ Cà Solanaceae, chi Lycopersicon, tên khoa học là
Lycopersicon esculentum Mill. Theo tác giả Breznhev. D (1964) Lycopersicon
gồm 3 loài:
1. L. Esculentum.

tím nhạt, giòn dễ gãy; khi trưởng thành cây có màu xanh nhạt hơi tối, thân thường
có tiết diện đa giác, cây cứng, phần gốc hoá gỗ. Thân phát triển theo kiểu lưỡng
thân, các chùm hoa sinh ra từ thân chính. Vì vậy, thân chính có vị trí quan trọng đối
với sản lượng quả. Các chồi nách trưởng thành đều có khả năng ra hoa quả, nhưng
sản lượng thay đổi theo từng vị trí cành trên cây. Trong sản xuất nên để một thân
chính và một cành ngay dưới chùm hoa thứ nhất, những nhánh khác cần tỉa bỏ kịp
thời để tập trung dinh dưỡng cho quả và hạn chế sâu, bệnh hại.
2.4.3. Lá
Lá là đặc trưng hình thái để phân biệt giống. Lá thuộc lá kép lông chim lẻ,
mỗi lá hoàn chỉnh có 3 - 4 đôi lá chét. Ngọn lá có một phiến lá riêng biệt gọi là lá
đỉnh. Giữa các lá chét còn có lá giữa và lá bên nhỏ hơn lá chét. Màu sắc lá, răng
cưa nông hay sâu cũng là đặc điểm của giống. Lá cà chua có dạng lá khoai tây và
lá bình thường. Bộ lá quyết định đến năng suất, số lá ít ảnh hưởng đến quang hợp,
quả ít và nhỏ, năng suất không cao. Số lá là đặc tính di truyền của giống, nhưng
quá trình hình thành lá chịu ảnh hưởng lớn của nhiệt độ [6].
Hoa thuộc loại hoa hoàn chỉnh (bao gồm lá đài, cánh hoa, nhị và nhuỵ), cây
tự thụ phấn là chủ yếu. Các bao phấn bao quanh nhuỵ, thường vị trí nhuỵ thấp hơn
5
nhị. Núm nhuỵ thường chín sớm hơn hạt phấn. Hoa nhỏ màu sắc không sặc sỡ,
không có mùi thơm nên không hấp dẫn côn trùng. Tỷ lệ thụ phấn chéo phụ thuộc
và cấu tạo hoa, giống và thời vụ gieo trồng. Trồng cà chua trong nhà kính, nhà
lưới cần tác động rung cây, rung cành để hạt phấn dễ ra khỏi bao phấn. Hoa cà
chua mọc thành chùm, hoa đính vào chùm bởi cuống ngắn. Dựa vào sự phân
nhánh của chùm hoa mà phân ra 3 dạng chùm: đơn giản, trung gian, phức tạp.
Dựa vào đặc điểm ra hoa có thể phân ra 3 loại hình sinh trưởng: hữu hạn, vô hạn
và bán hữu hạn.
2.4.5. Quả
Quả là bộ phận thứ 2 để phân biệt giống. Quả cà chua chín là loại quả mọng
bao gồm vỏ, thịt quả, vách ngăn, giá noãn và ở giữa là trục. Số lượng quả trên cây
là đặc tính di truyền của giống nhưng cũng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện

trong đó tiêu thụ rau chiếm tới 3/4 và xu hướng tiêu thụ của các khu vực thành thị
tăng mạnh hơn nhiều so với các vùng nông thôn.
Ở nước ta, cà chua được trồng trên 100 năm nay, diện tích trồng hàng năm
biến động 12 - 13 ngàn ha. Cà chua được trồng phổ biến ở các tỉnh vùng đồng
bằng sông Hồng. Ở miền núi huyện Đồng Hỷ, huyện Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên)
là vùng trồng cà chua có nhiều kinh nghiệm. Đà Lạt (Lâm Đồng) là vùng trồng cà
chua nổi tiếng. Cà chua là cây rau quan trọng của nhiều vùng chuyên canh rau, là
cây trồng sau của lúa.
2.6. Một số thành tựu trong công tác chọn tạo giống cà chua trên thế giới và
ở Việt Nam
2.6.1. Thành tựu chọn tạo giống cà chua trên thế giới
A.W.Livingston là người Mỹ đầu tiên nhận thức được sự cần thiết phải
chọn tạo giống cà chua. Từ những năm 1870 đến 1893, ông đã giới thiệu 13 giống
trồng trọt được chọn lọc theo phương pháp chọn lọc cá thể. Cuối thế kỷ 19 trên
200 dòng, giống cà chua đã được giới thiệu rộng rãi. Quá trình cải tiến giống vẫn
được tiến hành không ngừng cho đến ngày nay[6].
Tại Mỹ, công tác chọn tạo giống cà chua được tiến hành từ rất sớm, đến
nay đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Trường Đại học California đã chọn ra
được những giống cà chua mới như UC- 105, UC- 134, UC- 82 có năng suất cao,
có nhiều đặc điểm tốt: tính chịu nứt quả cao, quả cứng [1].
7
Bên cạnh những giống mới được chọn tạo hàng năm, các giống cũ vẫn
được duy trì vừa được dùng trong sản xuất, vừa dùng làm nguồn vật liệu di truyền
cho việc chọn tạo giống. Trong đó một số giống thích hợp trồng trong thời vụ
nóng như Costoluto Genovese, Super, Intalian Paste, Oxheart, Black Krim[25].
Công ty giống rau của Pháp - Technisem cũng đã chọn tạo và đưa ra thị
trường nhiều giống cà chua lai F1 có khả năng đậu quả ở nhiệt độ cao, chống chịu
sâu bệnh, cho năng suất và chất lượng tốt. Những giống này đã được giới thiệu
cho nhiều vùng nhiệt đới như Rio Graude, Tropimech VF1- 2, Cerise, Xina,
Carioca[22].

PT3027 cho năng suất cao (53 tấn/ha), chất lượng tốt, có khả năng chống nứt quả
và chống bệnh virut trong điều kiện nhiệt độ cao của vùng nhiệt đới [17].
Trong những thập kỷ gần đây nhờ có sự tiến bộ về công nghệ gen, nhiều
công ty công nghệ sinh học đã phát triển giống cà chua cho quả có khả năng bảo
quản lâu dài mang cấu trúc gen làm chậm quá trình mềm hoặc chín của quả. Như
sử dụng gen Flavr Savr làm giảm sự hình thành chất polygalactaronaza (enzim
chủ yếu phân giải chất pectin và làm mềm quả trong quá trình chín) nhưng màu
sắc quả vẫn bình thường. Những gen cấu trúc khác cũng tạo ra để làm giảm hàm
lượng Ethylen trong quả, từ đó làm giảm quá trình chín của quả [12].
Ngoài hai đặc tính chịu nóng tốt và kháng bệnh héo xanh vi khuẩn các nhà
khoa học đã tìm hiểu khả năng kháng bệnh virut. Bằng các phương pháp lai
truyền thống và hiện đại các nhà khoa học đã nghiên cứu và chuyển một số gen
kháng virut từ các loài cà chua hoang dại sang cà chua trồng trọt. Các nhà nghiên
cứu ở AVRDC đã nhận biết được nhiều vật liệu có mang gen kháng ToMV. Một
số vật liệu chứa gen Tm2
a
đã được sử dụng cho chương trình lai tạo giống cà chua
như L127(ah- Tm2
a
)(Mỹ), Ohio MR- 12(Mỹ), MR- 13(Mỹ) và đã tạo ra những
giống cà chua có tính trạng nổi bật [19].
2.6.2 Thành tựu chọn tạo giống cà chua của Việt Nam
Nước ta có khí hậu khắc nghiệt không thuận lợi cho sinh trưởng, phát triển
của cà chua nên năng suất, chất lượng không cao và số lượng dịch hại cà chua vô
cùng phong phú. Hướng đi mà các nhà chọn tạo giống của nước ta là chọn tạo
giống hay nhập nội giống thích ứng được với điều kiện tự nhiên nước ta, chúng có
khả năng cho năng suất cao, phẩm chất tốt. Đặc biệt đã tập trung đi nghiên cứu
chọn tạo giống cà chua Xuân - Hè nhằm tạo ra lượng sản phẩm cung cấp trong
9
thời kỳ khan hiếm. Trong những năm gần đây quá trình nghiên cứu và chọn tạo

10
nhận là giống tạm thời ngày 29/7/2004.
Cà chua lai chất lượng có HT144 của tác giả Nguyễn Hồng Minh là giống
quả nhỏ (8 - 12 g/quả), năng suất 3 - 3,5 kg/cây, cá biệt có cây được 5kg, chịu
nóng tốt, chịu tốt bệnh xoăn lá, héo xanh, thích hợp trồng chính vụ và trái vụ, cây
cao, sinh trưởng khoẻ, cho thu hoạch kéo dài. HT144 đang được người dân ở Nam
Định, Bắc Giang, Hưng Yên trồng thử nghiệm và đang đề nghị Bộ Nông nghiệp
và PTNT công nhận là giống mới [9].
Giống cà chua Hồng Lan do Viện cây Lương thực - Thực phẩm chọn lọc từ
một dạng đột biến tự nhiên của giống cà chua Ba Lan trắng. Giống sinh trưởng hữu
hạn, thích ứng rộng về thời vụ và khu vực trồng, khối lượng trung bình quả 80 -
100g, năng suất ổn định 25 - 30 tấn/ha, khi chín quả mềm khó vận chuyển đi xa.
Giống được khu vực hoá năm 1994 [8].
Giống SB2 được Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam chọn từ tổ hợp lai
Star x Ba Lan. Cây sinh trưởng hữu hạn, thời gian sinh trưởng 100 - 110 ngày,
năng suất vụ Đông - Xuân 35 - 40 tấn/ha. Giống được Hội đồng Khoa học Bộ
Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống Nhà nước năm 1994
[8].
Giống CS1 do Trung tâm Kỹ thuật Rau - Hoa - Quả Hà Nội chọn từ tổ hợp
quần thể lai nhập từ Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Rau châu Á (AVRDC).
Năm 1995 được công nhận là giống khu vực hoá. Giống thuộc loại hình sinh
trưởng hữu hạn, có khả năng chống chịu virut, trồng được trong vụ Xuân - Hè và
Đông sớm, năng suất cao 25 - 30 tấn/ha (vụ Xuân - Hè) và 35 - 40 tấn/ha (vụ
Đông - Xuân) [8].
Giống P375 do Viết Thị Tuất và Nguyễn Thị Quang thuộc Trung tâm Kỹ
thuật Rau- Hoa- Quả Hà Nội tạo ra bằng phương pháp chọn cá thể nhiều lần từ
giống cà chua Đài Loan. Cây cao 160 - 180m, thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn,
khối lượng trung bình quả 100 - 110g, năng suất vụ Xuân - Hè 40 - 45 tấn/ha, vụ
Đông - Xuân 50 - 65 tấn/ha.
Giống cà chua chịu nhiệt VR2 được Vũ Thị Tình chọn lọc từ 17 giống cà

giới
2.7.1 Thế giới
Ở hầu hết các nước đang phát triển, canh tác vẫn dựa vào đất tự nhiên là
chính. Đầu tư thâm canh, tăng năng suất cây trồng làm cho đất ngày càng nghèo
kệt. Chính vì vậy, nghiên cứu về các biện pháp che tủ cho đất cho cây trồng đã
được các nhà khoa học nước ngoài chú ý nghiên cứu từ thập kỉ 70 – 80 của thế kỉ
trước.
Cây trồng hút chất dinh dưỡng từ đất để sinh trưởng phát triển. Ngoài các
bộ phận thu hoạch ra, trong các sản phẩm phụ cũng chứa đựng chất dinh dưỡng
mà cây trồng lấy từ đất. Sau mỗi vụ thu hoạch cây trồng lại để lại cho đất một
lượng lớn các phụ phẩm chất hữu cơ. Thông qua các quá trình chuyển hóa các
chất trong đất mà các sản phẩm này trở thành nguồn dinh dưỡng đáng kể cho cây
trồng vụ sau.
Việc sử dụng biện pháp che tủ đối với các cây trồng nhiệt đới như cà chua,
khoai tây, chè đã được khuyến cáo từ lâu với rất nhiều lý do khác nhau, trong đó
lý do quan trọng nhất là bản toàn đất và nguồn nước (Manipua et al 1969, Shyu
and Wu, Robinson and Hosegood 1965) [13].Các vật liệu che tủ hữu cơ cũng có
thể làm tăng khả năng cung cấp nước của đất bằng cách tăng tính thấm của những
loại đất có cấu trúc bề mặt kém (Russell, 1973).
Theo kết quả nghiên cứu của C.O.Othieno và P.M.AHN (1980): trong
điều kiện che tủ, 2 năm đầu quan sát thấy sự khác nhau về nhiệt độ đất giữa các
công thức che tủ trên đất trồng cà chua bằng bầu nhân giống vô tính. Nhưng sự
khác biệt này khồng còn nữa khi tán cà chua phát triển đạt độ che tủ > 40% bề
mặt mặt đất. Đường kính thân, năng suất và tổng và tổng chất khô có mối tương
quan rõ rệt đến nhiệt độ đất.[11]
13
Theo kết quả nghiên cứu của C.O.Othieno (1980): Độ ẩm đất và hàm lượng
nước của cây cà chua vo tính bị tác động khác nhau khi che tủ bằng 5 loại vật liệu
tủ: mảnh nhựa đen, mảnh đá vụn, cỏ Eragrostic Curvula, cỏ Curvula, cỏ Napier và
cỏ Guatemala. Trong điều kiện khô hạn kéo dài, độ ẩm đất nhìn chung đạt cao

dầu) đến cây họ hòa thảo và năng suất tinh dầu, hiệu suất sử dụng phân đạm trên cây
kê Nhật bản đã kết luận: năng suất chất khô của cây họ hòa thảo tăng 17% khi che tủ
bằng rơm rạ, tăng 31% khi che tủ bằng bã cây xả, và ở cả 2 công thức che tủ đều cho
năng suất cao hơn so với công thức đối chứng (không che tủ). Che tủ đã làm cho
năng suất tinh dầu của cây kê tăng một cách có ý nghĩa. Che tủ làm độ ẩm đất tăng 2
- 4% so với không che tủ. Che tủ bằng rơm rạ, khả năng hấp thụ đạm của cây tăng
17%, tương ứng tăng 25% khi che tủ bằng bã cây xả.[12]
Sugiyarto (2009), khi nghiên cứu che tủ trên khoai lang với công thức
che tủ bằng thân ngô và công thức đối chứng (không che tủ) đã kết luận : việc sử
dụng thân cây ngô để che tủ đã làm tăng chỉ số đa dạng sinh học của các động vật
không xương sống 44% (trên bề mặt mặt đất ) – 73% ( ở độ sâu dưới đất) so với
công thức đối chứng. Công nghệ che tủ hữu cơ có thể làm tăng đa dạng sinh học
các loài động vật không xương sống có ích trong đất.[13]
(Mard-5/9/2011): Những nghiên cứu của các nhà khoa học tại Bộ Nông
nghiệp Mỹ (USDA) đã chỉ ra rằng người nông dân thực hiện canh tác hữu cơ định
kỳ cải tạo đất bằng phân hữu cơ sau khi trồng vẫn có thể kiểm soát cỏ dại và duy
trì mức chi phí thấp bằng cách sử dụng vải tủ đất nông nghiệp.
Nhà khoa học về đất Larry Zibilske công tác tại đơn vị nghiên cứu nguồn
tài nguyên thiên nhiên và canh tác tổnug hợp trực thuộc cơ quan Nghiên cứu nông
nghiệp (ARS) ở Weslaco, Texas đã xem xét cách thức tủ đất nông nghiệp gây cản
trở sự xâm nhập của nước và ảnh hưởng đến hàm lượng cácbon và các chất dinh
dưỡng trong đất. Zibilske đã tiến hành nghiên cứu không gian bao kín dưới mặt
đất (hốc đất) có sử dụng hai loại tủ đất nông nghiệp bán trên thị trường gồm: vải
15
lọc (vải gòn dệt kim), vải hai lớp, và một vật liệu dệt khít được làm từ sợi
polypropylene nhẵn . Đã quan sát thấy mối liên hệ giữa việc sử dụng vải tủ đất
nông nghiệp với mức giảm lượng nitơ và phốt pho trong đất.[13]
2.7.2. Việt Nam
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về che tủ khá nhiều chủ yếu ở những vùng
đất dốc. Những nghiên cứu được tiến hành trên cây chè và cho kết quả rất tích

xuống mặt đất, quá trình phân giải mùn và các chất hữu cơ được kìm hãm lại, chất
hữu cơ dự trữ được duy trì, độ phì của đất được bảo vệ và đất không ngừng được
bồi dưỡng.[2]
Ở Bắc Giang áp dụng che tủ nilon cho 20 ha lạc vụ xuân đã làm tăng năng suất
từ 25 - 35% so với không che tủ nilon.
Nhóm các nhà khoa học thuộc Viện khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp
miền núi phía bắc do Tiến sĩ Lê Quốc Doanh làm Chủ nhiệm, đã nghiên cứu áp
dụng các biện pháp che tủ đất phục vụ phát triển bền vững nông nghiệp vùng cao.
Các nhà khoa học chọn những ruộng nương có độ đồng đều cao, các loại đất
Feralit đỏ, vàng, đất dốc tụ dưới chân núi đá vôi ở nhiều điểm, nhiều địa phương
vùng cao phía Bắc. Các loại vật liệu che tủ được sử dụng gồm rơm, rạ, thân lá
ngô, lá mía, đậu đỗ, cỏ, cúc quỳ có thể tận dụng tại địa phương. Các nhà khoa
học thí nghiệm che tủ cho ngô, lúa bằng xác thực vật khô, thảm thực vật sống
hoặc trồng xen. Kết quả cho thấy, ở các ô có che tủ mức độ xói mòn đất giảm từ
73 đến 94% so với các ô không có che tủ. Với các vườn cây ăn quả, việc trồng
xen cỏ và cây lạc dại vừa ngăn chặn xói mòn đất vừa sản xuất thêm thức ăn cho
gia súc. Việc che tủ đất làm giảm nhiệt độ mặt đất từ 3 đến 7
0
C vào lúc 15 giờ
hàng ngày, giảm lượng nước bốc hơi, giảm đáng kể sự phát triển của cỏ dại. Chỉ
sau một vụ áp dụng, che tủ đất đã làm tăng hàm lượng các chất hữu cơ, đặc biệt là
lân và kali dễ tiêu tạo điều kiện cho cây phát triển tốt hơn. Ở vụ đầu, chi phí cho
việc thu gom vật liệu che tủ cao hơn nhưng do không phải cày bừa đất, giảm số
công làm cỏ nên tổng số công cho cả vụ thấp hơn 35 đến 40% so với không che tủ
đất. Từ vụ thứ 2 trở đi, nông dân đã có ý thức tận dụng tàn dư cây trồng và cây
dại sẵn có để che tủ đất tăng được hiệu quả sử dụng. [13]
Đến nay, diện tích áp dụng các kỹ thuật che tủ đất đã đạt hơn 1.000 ha với
sự tham gia của trên 2.000 hộ dân ở các tỉnh Bắc Kạn, Hà Giang, Sơn La, Lai
Châu, Nghệ An, Điện Biên Ngoài ra, nhiều hộ dân ở Tây Nguyên áp dụng
phương pháp trồng xen cỏ đậu Stylo và cỏ Ruzi với cà phê giảm được hai lần tưới

3.3. Nội dung nghiên cứu
- Thí nghiệm 1: Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển và năng suất của
một số giống cà chua trong vụ đông 2011 tại Việt Trì- Phú Thọ
- Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại vật liệu che tủ đất đến
sinh trưởng và năng suất của giống cà chua HT152 trong vụ xuân hè năm 2012
tại Việt Trì – Phú Thọ
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm tiến hành theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn (RCB) và ba lần nhắc lại:
* Thí nghiệm 1:
Công thức 1:Tropica (ĐC)
Công thức 2: HT160
Công thức 3: HT42
Công thức 4: HT152
Sơ đồ thí nghiệm:
CT2 CT1 CT4 CT3
CT3 CT4 CT1 CT2
CT1 CT3 CT2 CT4
*Thí nghiệm 2:
Công thức 1: Sử dụng rơm rạ + thân cây ngô che tủ
Công thức 2: Sử dụng nolon đen che tủ
Công thức 3: Sử dụng nilon trắng che tủ
Công thức 4: Không sử dụng vật liệu che tủ (đối chứng)
19
Sơ đồ thí nghiệm:
CT2 CT1 CT4 CT3 CT5
CT3 CT4 CT5 CT2 CT1
CT5 CT3 CT2 CT1 CT4
Diện tích mỗi ô thí nghiệm là 10m
2

I > 1,25 là quả dạng ô van
- Khối lượng trung bình quả (g)
- Tỷ lệ nhiễm sâu, bệnh hại của các giống trong thí nghệm: Một số loại sâu,
bệnh hại chủ yếu như sâu đục quả, bệnh virut xoăn lá, bệnh héo xanh (Pseudomonas
solanacearum Smith), bệnh mốc sương (Phytophthora infestans
+ Tính tỷ lệ sâu, bệnh hại theo phương pháp của Vũ Triệu Mân, Lê
Lương Tề năm 2003:
Tổng số cây bị sâu hại
Tỷ lệ sâu hại (%) = x 100
Tổng số cây thí nghiệm
Tổng số cây bị bệnh hại
Tỷ lệ bệnh hại (%) = x 100
Tổng số cây thí nghiệm
- Mức độ hại của cỏ dại:
+ Tính chủng loại cỏ dại chính trong các công thức che tủ.
+ Khối lượng cỏ dại tươi và khô trong các công thức che tủ.
- Tỷ lệ đậu quả của giống HT144 trong thí nghiệm (%)
- Tính tỷ lệ đậu quả giữa các chùm hoa trên cây (tính 5 chùm hoa đầu
tiên).
- Tính tỷ lệ đậu quả của cây:
Tổng số quả
Tỷ lệ đậu quả (%) = x 100
Tổng số hoa
- Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất:
+ Số chùm quả/cây.
+ Số quả/cây.
+ Khối lượng quả/cây ( kg).
+ Khối lượng trung bình/quả (g).
21
+ Năng suất thực thu: được tính năng suất trung bình trên 3 lần nhắc lại.

suất của một số giống cà chua quả lớn trong vụ đông 2011 tại Việt Trì- Phú
Thọ
4.1.1. Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của giống cà chua
4.1.1.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây
Chiều cao cây tạo nên cấu trúc hình thái liên quan đến khả năng sử dụng
năng lượng mặt trời có hiệu quả nhất, giúp ta xác định loại hình sinh trưởng của
giống cũng như có những biện pháp chăm sóc hợp lý, tạo điều kiện cho cây phát
huy tối đa những đặc tính tốt. Chiều cao của cây qua các giai đoạn khác nhau là
khác nhau. Kết quả nghiên cứu thí nghiệm thể hiện ở bảng 4.1 như sau:
Bảng 4.1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây của các
giống cà chua trong vụ đông 2011
Đơn vị: cm
Chỉ tiêu
CTTN
Chiều cao cây sau trồng … ngày
14 21 28 35 42 49 56 63 70 77 84 91
Tropica(ĐC) 36,5 49,8 66,7 83,3 88,6 97,6 107,8 115,1 126,5 137,6 143,7 149,5
HT160 35,3 47,8 63,2 76,5 80,4 90,6 99,5 109,8 120,2 130,8 136,5 143,6
HT42 28,1 38,7 55,6 66,2 70,5 77,3 89,7 101,0 113,6 122,4 127,5 133,7
HT152 38,2 52,7 68,1 85,6 94,4 108,7 118,8 128,0 137,6 145,0 149,8 153,7
* Giai đoạn sau trồng từ 14 -35 ngày: Tốc độ tăng trưởng chiều cao của
cây khá cao tăng lên khoảng 10,5- 17cm/tuần. Giống HT152 cao hơn so với giống
ĐC, giống HT42 và giống HT160 thấp hơn giống Troppica (Đ/C). Do thời kỳ này
nhiệt độ ấm áp thuận lợi cho sự sinh trưởng phát triển của cây, thúc đẩy cây sinh
trưởng nhanh về chiều cao tạo tiền đề cho các giai đoạn sau sinh trưởng phát triển.
- Sau 14 ngày qua theo dõi cho ta thấy tốc độ tăng chiều cao trung bình là
34,525cm. Giữa các giống thí nghiệm có sự chênh lệch chiều cao không đáng kể,
dao động trong khoảng 28,1- 38,2cm. Trong đó chiều cao của giống HT152 cao
nhất đạt 38,2cm, thấp nhất là giống HT142 đạt 28,1cm.
23

Qua theo dõi ở 3 giai đoạn cho ta thấy giống HT152 là giống có khả năng
tăng trưởng về chiều cao cây nhanh nhất, tăng trưởng chậm nhất là giống HT42.
24
4.1.1.2. Động thái ra lá của các giống cà chua tham gia thí nghiệm
Tiến hành theo dõi chỉ tiêu động thái tăng trưởng số lá giúp ta chú ý tới các
thời kỳ phát triển của bộ lá cà chua, tạo điều kiện cho ruộng cà chua quang hợp
tốt, cho năng suất cao. Kết quả theo dõi được thể hiện ở bảng 4.2 như sau:
Bảng 4.2: Động thái ra lá của các giống cà chua trong vụ đông 2011
Đơn vi: Lá
Chỉ tiêu
CTTN
Số lá sau trồng … ngày
14 21 28 35 42 49 56 63 70 77 84 91
Tropica(ĐC) 7,1 9,5 11,0 12,9 13,8 14,4 14,5 16,8 17,9 18,7 19,6 20,9
HT160 7,6
10,
0
11,2 13,3 14,2 14,8 15,2 17,1 18,2 19,7 20,5 21,9
HT42 7,0 9,3 10,6 11,7 12,9 14,0 14,2 15,8 16,5 17,9
18,
8
19,6
HT152 7,7 10,4 11,8 13,7 14,8 15,3 15,5 17,8 18,7
20,
0
21,1 22,3
Qua bảng số liệu chúng tôi thấy số lá tăng lên tỉ lệ với chiều cao của cây.
Giai đoạn cây phát triển mạnh nhất về chiều cao cũng là giai đoạn cây phát triển
mạnh nhất về số lá.
* Giai đoạn sau trồng từ 14- 35 ngày: Sau trồng 14 ngày cây bắt đầu hồi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status