Đề cương nghiên cứu khoa học Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị tràn máu, tràn khí màng phổi trong chấn thương ngực kín tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang - Pdf 25

SỞ Y TẾ HÀ NỘI
BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRÀN MÁU, TRÀN KHÍ
MÀNG PHỔI TRONG CHẤN THƯƠNG NGỰC KÍN
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG
Nhóm nghiên cứu: Ths.BS. Nguyễn Công Hiếu
Ths.BS. Đỗ Minh Trí
HÀ NỘI, 2014
MỤC LỤC
1.1. Lịch sử chẩn đoán và điều trị chấn thương ngực 3
1.2. Giải phẫu lồng ngực 5
1.3. Giải phẫu bệnh và sinh lý bệnh trong CTNK: 13
1.4. Chẩn đoán TM-TKMP trong CTNK: 20
1.5. Điều trị TM-TKMP do CTNK: [4], [16], [20] 24
3.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước mổ 31
3.1.1. Đặc điểm dịch tễ học 31
3.1.2. Đặc điểm lâm sàng 32
3.1.4. Chẩn đoán trước mổ lồng ngực 34
3.2. Điều trị 36
3.3. Kết quả sớm 36
3.4. Kết quả khám lại 38
Chương 4 41
DỰ KIẾN BÀN LUẬN 41
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương ngực bao gồm chấn thương ngực kín và vết thương ngực
hở. Chấn thương ngực (CTN) là cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Cùng với sự
phát triển nhanh chóng của xã hội về giao thông, xây dựng, tại các bệnh
viện, bệnh nhân CTN cũng gia tăng cả về số lượng và mức độ trầm trọng của

2. Đánh giá kết quả điều trị dẫn lưu màng phổi tại Bệnh viện đa
khoa Đức Giang từ năm 2011-2014.

2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử chẩn đoán và điều trị chấn thương ngực
1.1.1.Trên thế giới
Năm 1623, Ambrois Paré (Pháp) đã lần đầu tiên mô tả hiện tượng “tụ
khí” trong màng phổi trên một bệnh nhân CTNK có gãy xương sườn kèm
theo tràn khí dưới da, vì trong thời kỳ ấy rất khó phát hiện tràn khí màng phổi
(TKMP) với số lượng ít. Sau đó khoảng một thế kỷ, vào năm 1724, Boerhave
mô tả trường hợp TKMP nặng và xẹp phổi mà không phải do chấn thương
ngực (CTN). Năm 1803, Etard dùng thuật ngữ TKMP để mô tả trọn vẹn
thương tổn này [11], [13].
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đã có một tiến bộ quan trọng trong điều trị
CTN của một số phẫu thuật viên - đó là làm DLMP, như Hewit ở Anh (1876),
Subbotin ở Nga, Gotthra ở Đức (1891). Tuy nhiên, do còn hạn chế trong hiểu
biết về giải phẫu và sinh lý của phổi – màng phổi, nên việc DLMP để điều trị
tràn máu, tràn khí khoang màng phổi (MP) vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Cũng có cách điều trị khác được đề xuất như Henric Bastiane và một số thầy
thuốc ở Ý, đã dùng phương pháp chọc hút không hoàn toàn: Sau khi chọc hút
máu MP thì bơm lại vào khoang MP một khối lượng không khí bằng nửa số
máu đã hút ra [13]. Tới nửa sau thế kỷ XX, với sự tiến bộ về gây mê hồi sức,
sự hiểu biết ngày càng tốt hơn về giải phẫu – sinh lý hô hấp, và sự ra đời của
Penicilline năm 1941 và sau đó là nhiều loại kháng sinh phổ rộng khác nên
ngành phẫu thuật lồng ngực đã có những bước tiến rất lớn cả trong chẩn đoán
và trong điều trị gần đây là sự phát triển của phẫu thuật nội soi lồng ngực
trong chấn thương. Năm 1946, Branco, người Brazil lần đầu tiên thực hiện
nội soi lồng ngực trong chấn thương. Năm 1993, Kirby ở Mỹ và Walker ở

Lồng ngực là phần cơ thể nằm giữa cổ và bụng. giới hạn trên lồng ngực
gồm có bờ trên đốt sống ngực 1 ở sau, bờ trên cán xương ức ở trước, cùng với
hai xương – sụn sườn 1 ở hai bên. Giới hạn dưới là cơ hoành.
1.2.1. Thành ngực
1.2.1.1. Khung xương cứng:
Khung xương của thành ngực gồm có xương ức ở phía trước, cột sống ở
phía sau nối với nhau bằng các xương sườn (Hình 1.1). Giữa các xương sườn
có cơ và da che phủ, sát mặt trong có lá thành màng phổi. Sự phối hợp co-dãn
của các cơ hô hấp và dây chằng bám vào khung xương làm thành ngực có tính
đàn hồi.
Hình 1.1. Cấu trúc khung xương cứng nhìn từ trước (1) và sau (2) [6].
Trong CTN, phải có lực tác động mạnh mới làm gẫy được khung xương
cứng để gây được tổn thương vào bên trong lồng ngực:
- Xương ức: Nằm phía trước chia lồng ngực trước thành hai phần phải và
5
trái, hai bên tiếp giáp với các sụn sườn và liên quan với động mạch vú trong,
phía sau liên quan với các tạng trong trung thất. Vì vậy, chấn thương mạnh
vào vùng xương ức và các sụn sườn 2 bên – gây MSDĐ trước và TM- TKMP
2 bên, và tổn thương các tạng trung thất nhất là tim.
- Hệ thống xương sườn là một khung xương cứng, di động theo nhịp thở,
bờ dưới mỗi xương có bó mạch thần kinh liên sườn đầu trước liên quan với
xương ức, đầu sau liên quan với cột sống ngực (Hình 1.2).
Hình 1.2.Các động mạch và thần kinh liên sườn. [6]
Phía trong xương sườn liên quan với phổi và màng phổi, nên khi xương
sườn bị gãy thì rất dễ làm rách bó mạch liên sườn, màng phổi và phổi, gây
nên TM-TKMP. TM-TKMP hai bên có thể xảy ra khi có lực tác động đồng
thời cả hai bên thành ngực hay lực đè ép mạnh từ trước ra sau gây gãy các
xương sườn ở 2 bên.
- Cột sống ngực nằm ở giữa, phía sau lồng ngực hai bên liên quan với
các xương sườn từ I đến XII, phía trước liên quan với các tạng trong trung

Các thùy phổi có hình nêm, đỉnh của chúng ở rốn phổi và đáy thì ở trên
bề mặt phổi, nếu rạch chính xác theo đường ranh giới của phân thùy (nơi có
các tĩnh mạch gian phân thùy) thì sẽ ít gây chảy máu hoặc rò khí phế nang
trên bề mặt đường rạch.
Hình 1.5. Đối chiếu của phổi lên lồng ngực (1). Phổi và màng phổi nhìn
trước (2) [6].
Đối chiếu của phổi lên lồng ngực có sự thay đổi tùy theo từng người và
8
1 2 1 2
theo thì thở vào hoặc thở ra (Hình 1.5).
- Khoang liên sườn V: thường tương ứng với rãnh liên thùy giữa, thùy
trên và thùy dưới, và nằm vào giữa khoang màng phổi. Vì vậy, đường mở ngực
qua vị trí này cho phép can thiệp vào nhiều vị trí khác nhau trong lồng ngực .
Phổi có hệ mạch máu rất phong phú xuất phát từ 2 hệ thống, thứ nhất là
hệ tiểu tuần hoàn (động mạch – tĩnh mạch phổi), có nhiệm vụ trao đổi khí,
dòng máu có lưu lượng lớn, nhưng áp lực thấp dưới 30 mmHg. Thứ hai là hệ
mạch khí phế quản, có nhiệm vụ nuôi dưỡng nhu mô phổi, kích thước mạch
và lưu lượng máu nhỏ, nhưng áp lực cao như áp lực đại tuần hoàn, hệ thống
mạch máu phổi luôn bám sát hệ thống khí phế quản, nên những tổn thương
làm rách nhu mô phổi trong CTNK thường vừa gây chảy máu, vừa gây xì hơi
ra ngoài đường hô hấp, cụ thể là bên trong vừa gây tràn máu – tắc nghẽn
đường hô hấp, bên ngoài thì gây TM – TKMP. Do áp lực trong hệ tiểu tuần
hoàn thấp, nên với các tổn thương nhu mô phổi ngoại vi (rất thường gặp trong
CTN ) thì chảy máu thường tự cầm, do vậy đa số chỉ cần điều trị bằng DLMP
– thậm chí chỉ chọc hút đơn thuần là khỏi, mà không cần phải mở ngực. Nhu
mô phổi mềm và xốp như bọt biển, co dãn rất mạnh theo nhịp thở, nên không
tự giữ được hình thể, hơn nữa lại có nhiều sợi đàn hồi làm phổi luôn có xu
hướng co nhỏ lại về phía rốn phổi gây xẹp phổi trong CTN.
- Màng phổi và khoang màng phổi:
Màng phổi là một bao thanh mạc bọc xung quanh phổi, gồm hai lá - lá

Trung thất là một khoang trong lồng ngực nằm giữa hai khoang MP,
chứa đựng hầu hết các thành phần quan trọng của bộ máy hô hấp và tuần hoàn
trừ hai phổi. Trung thất thường được phân chia thành nhiều khu, có hai cách
phân chia khác nhau:
- Cách cổ điển: Chia trung thất thành hai thành phần là trung thất trước và
trung thất sau, ranh giới là một mặt phẳng đi qua khí quản và hai phế quản chính.
- Cách phân chia hiện đại: Cách này đã được đưa ra và thống nhất ở hội
10
nghị quốc tế các nhà giải phẫu, theo đó thì trung thất được chia thành 4 khu
là: Trung thất trên (nằm trên mặt phẳng ngang đi ngay trên khoang màng
ngoài tim) chứa các thành phần là khí quản, tĩnh mạch tay đầu, tuyến ức, cung
động mạch chủ, ống ngực, thực quản. Trung thất trước (khoang rất hẹp nằm
giữa màng ngoài tim và mặt sau xương ức) chứa thành phần là các mạch máu
nhỏ, mô mỡ và mô liên kết, tuyến ức ở trẻ em. Trung thất giữa là khoang chứa
tim, màng ngoài tim, động mạch chủ lên, thân động mạch phổi, các tĩnh mạch
phổi và các dây thần kinh hoành. Trung thất sau (nằm sau tim và màng ngoài
tim, tức là mặt phẳng đứng ngang khí quản và hai phế quản chính), gồm các
thành phần như thực quản cùng các dây thần kinh X, động mạch chủ xuống,
ống ngực, các thân giao cảm.
Hình ảnh 1.6. Hình ảnh trung thất nhìn bên phải và trái. [6]
Tất cả các cơ quan trong trung thất đều nằm trong một đám mỡ và tổ
chức tế bào lỏng lẻo, nên khi chấn thương rất dễ bị tụ máu, thậm chí cả tràn
khí trung thất, nếu số lượng nhiều sẽ gây chèn ép vào các cơ quan trong trung
11
thất, nhất là cản trở máu về tim. Vì vậy khi có TM-TKMP hai bên do chấn
thương sẽ tác động đồng thời vào trung thất, trung thất không còn khoảng
trống bù khi bị chèn ép gây nên rối loạn tuần hoàn, hô hấp nghiêm trọng.
1.2.3. Giải phẫu sinh lý của hô hấp: [3]
Hoạt động hít vào – thở ra chủ yếu dựa trên 4 yếu tố giải phẫu sinh lý
sau: Hoạt động của cơ hô hấp, tính đàn hồi của thành ngực, tính đàn hồi của

TKMP hai bên là một thể CTN rất nặng.
1.3. Giải phẫu bệnh và sinh lý bệnh trong CTNK:
1.3.1. Tổn thương ở thành ngực: [3], [4], [12], [19], [20].
- Gãy xương sườn:
+ Gãy xương sườn là một thương tổn hay gặp trong CTNK. Cơ chế chủ
yếu là chấn thương trực tiếp làm gãy xương sườn tại vị trí va đập, nên thường
có xây xát da ở vùng gãy xương sườn. Đầu xương gãy có thể di lệch, đâm vào
sâu gây tổn thương màng phổi - phổi. Số lượng xương gãy khác nhau tùy
theo chấn thương, có thể gãy một hoặc nhiều xương sườn, ở 1 hoặc 2 bên của
lồng ngực. Nơi hay gãy nhất là cung sau hoặc cung bên; cung trước ít gặp hơn
nhưng lại khó phát hiện trên X quang ngực do cấu trúc sụn ít cản quang.
Những xương sườn số 5 – 9 có tỷ lệ gãy cao nhất.
+ Các xương sườn ở cao (xương sườn 1-3) ít khi bị gãy vì có xương
sườn 2 nhô ra ngoài như một vòng cung che chở, sau ngoài có cơ và xương
bả, phía trước nơi nông nhất của sườn 1 có xương đòn nhô ra, nên xương
sườn thường gãy cùng với xương sườn 2 và xương đòn, trật khớp quạ đòn
hoặc khớp ức đòn, có khi gãy cả xương bả. Thương phải là chấn thương mạnh
mới gây nên gãy như vậy. Khi sườn 1 gãy có thể gặp các tổn thương động
mạch, tĩnh mạch dưới đòn và đám rối thần kinh cánh tay do nằm sát xương.
13
Màng phổi và đỉnh phổi nhô lên ở ngay sau xương sườn 1, do đó khi gãy sườn
1 phổi và màng phổi có thể bị rách. Sườn 1 còn liên quan gián tiếp với thực
quản và khí quản, theo thống kê của Le Brigand thì khoảng 10% các trường
hợp rách khí phế quản trong CTNK có kèm theo gãy xương sườn 1[11], vì
vậy cần chú ý phát hiện tổn thương thực quản, khí quản trong trường hợp gãy
xương sườn 1.
- Tràn khí dưới da:
Khi có TKMP nhiều (do rách nhu mô phổi ) kết hợp với tổn thương
thành ngực do gãy xương sườn, thì không khí từ khoang màng phổi có thể
chui qua tổ chức dưới da, hình thành nên tràn khí dưới da. Diện tràn khí có

thương tổn nặng (vỡ phế quản có van), không khí tràn vào khoang màng phổi
liên tục mà không thoát ra ngoài được, sẽ gây TKMP dưới áp lực, chèn ép
nặng nề vào phổi và trung thất, dẫn đến bệnh cảnh lâm sàng rất nặng, nguy cơ
tử vong cao.
Không khí tràn vào khoang màng phổi sẽ làm mất áp lực âm tính, nhu
mô phổi xẹp co dúm lại, khoang liên sườn dãn rộng ra, làm lồng ngực gồ cao,
và đẩy trung thất sang bên dối diện, đẩy cơ hoành xuống dưới. Khi có TKMP
hai bên thì tổn thương sẽ tác động vào hai khoang màng phổi cùng lúc nên rối
loạn hô hấp sẽ nghiêm trọng hơn. Trong CTN, rất ít khi gặp thể TKMP đơn
thuần, mà chủ yếu là thể tràn khí phối hợp với tràn máu. Tuy nhiên, có một
vài trường hợp do lượng khí quá nhiều mà lượng máu ít, nên rất khó phát hiện
trên lâm sàng cũng như X quang, và thường được gọi là TKMP. Xét ở góc độ
giải phẫu, TKMP đơn thuần chỉ gặp ở các trường hợp vỡ kén khí bệnh lý của
phổi, do tự phát hoăc do chấn thương (thường rất nhẹ) vào thành ngực.
- Tràn máu khoang màng phổi:
15
Nguồn máu chảy vào MP có thể đến từ chỗ rách cơ thành ngực, ổ gãy
xương sườn, vùng dập – rách nhu mô phổi, thương tổn các mạch máu lớn.
Lượng máu mất tối đa trong mỗi khoang màng phổi có thể đến 3000ml. Nước
máu trong khoang MP không đông, thường là nước máu đen. Thông thường,
khi lượng máu chiếm trên 10% dung tích khoang màng phổi lấp kín góc sườn
hoành/phim X quang ngực thẳng – tư thế đứng), thì mới gây suy hô hấp trên
lâm sàng. Nếu số lượng máu chảy nhiều trong một thời gian ngắn, thì sẽ có cả
nước máu không đông lẫn cục máu đông.
Máu tràn vào khoang màng phổi sẽ dẫn đến mất áp lực âm tính, chèn ép
vào phổi và đẩy trung thất sang bên đối diện. Khi có TMMP hai bên sẽ làm
tăng mức độ mất máu, chiếm thể tích của cả hai bên khoang màng phổi, trung
thất bị chèn ép mất không gian bù trừ, do đó thể bệnh này là rất nặng.
Trong CTN, cũng ít khi gặp thể TMMP đơn thuần, mà đa số là thể tràn
máu kèm tràn khí. Tuy nhiên, ở một số trường hợp, do lượng khí quá ít hoặc

dính màng phổi, hoặc mủ màng phổi. Khi đó việc điều trị phẫu thuật sẽ rất
khó khăn và kết quả rất hạn chế, do máu đông sẽ thoái hóa thành lớp vỏ
fibrin dính chặt vào nhu mô phổi, rất khó bóc tách và gỡ dính. Tuy nhiên
thương tổn này ít gặp trong CTNK [Error: Reference source not found].
1.3.3. Thương tổn các tạng trong lồng ngực [13]
- Rách nhu mô phổi ngoại vi: Là thương tổn thường xuyên gặp, do dị
vật hoặc đầu các xương gãy di lệch chọc vào, gây chảy máu và thoát khí vào
khoang MP.
- Rách các phế quản lớn: Ít gặp, thường do cơ chế giằng – xé trong
CTNK, gây tràn khí rất nhiều vào khoang màng phổi (có thể gây tràn khí dưới
áp lực), và chảy máu vào trong lòng phế quản lớn dẫn đến dấu hiệu ho khạc ra
17
máu sớm trên lâm sàng.
-Tụ máu đụng dập phổi: Nhu mô phổi bị rách – dập nát thành từng
mảng, thường do cơ chế va đập mạnh trực tiếp phối hợp với giảm gia tốc đột
ngột. Vùng phổi thương tổn có thể gây TM-TKMP nếu kết hợp với rách nhu
mô phổi, đặc biệt là mất chức năng thông khí, và chảy máu vào trong lòng các
phế quản gây tắc hoặc xẹp cả những vùng phổi không tổn thương. Một số thể
nặng – thương tổn rộng, có thể gây ho ra máu dữ dội ngay sau khi bị thương,
làm tắc nghẽn đường hô hấp,và nhanh chóng dẫn ðến tử vong.
- Xẹp phổi: Đây là thương tổn thường xuyên gặp trong CTN. Xẹp phổi
là hiện tượng nhu mô phổi bị xẹp lại ở một số vùng (thường ở vị trí thấp) hoặc
toàn bộ một bên phổi, làm phổi không nở ra được, không trao đổi không khí,
và dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề. Trái ngược với TM-TKMP, xẹp phổi gây
co kéo trung thất về bên thương tổn, kéo cơ hoành lên cao, làm xẹp các
khoang liên sườn và lồng ngực bị xẹp xuống ở bên thương tổn. Có rất nhiều
yếu tố gây ra xẹp phổi xuất hiện ở nhiều thời điểm khác nhau sau khi bị
thương, và thường tạo thành một vòng xoắn bệnh lý rất khó điều chinh.
- Chấn thương tim: Đụng dập – tụ máu màng tim hoặc tim, vỡ tim, rách
các van tim. Vị trí chấn thương thường vào vùng trước xương ức. Rất hiếm

bên trong có chứa máu cục và huyết thanh, tạo thành các khoang trongMP,
những trường hợp này sẽ gây dày dính MP hoặc khi có nhiễm khuẩn kèm
theo sẽ thành mủ màng phổi, một số trường hợp sự tiến triển không đều, có
khoang đã hóa mủ, có khoang còn là máu loãng. Nếu máu MP được hút sớm,
lớp fibrin vẫn có bám sát vào khoang MP nhưng mỏng hơn thường không
thấy được trên X- quang, khi hít vào thật sâu, phổi nở sát thành ngực, lớp
fibrin sẽ vỡ, đây chính là giá trị của động tác thở sâu trong quá trình điều trị
CTN. Nếu để muộn lớp fibrin đã đầy đủ thì dù hút hết nước máu, phổi cũng
không nở lên được, bắt buộc phải mở ngực bóc bỏ lớp này tránh dầy dính MP.
TM-TKMP hai bên là tổn thương gây tràn máu, tràn khí ở cả hai bên
lồng ngực, gây suy hô hấp, suy tuần hoàn nặng kết hợp với bệnh cảnh đa
19
thương bệnh nhân sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng sốc nặng và tử vong nếu
không được phát hiện và điều trị kịp thời.
1.4. Chẩn đoán TM-TKMP trong CTNK:
1.4.1. Triệu chứng lâm sàng: [1], [2], [3], [10], [13]
- Nguyên nhân chấn thương: Theo các nghiên cứu trước đây, nguyên
nhân thường gặp nhất gây CTNK ở Việt Nam là TNGT (trên 60%), hai nhóm
nguyên nhân còn lại là TNLĐ, TNSH thì ít gặp hơn.
- Triệu chứng cơ năng:
+ Đau ngực: Là triệu chứng rất thường gặp trong CTNK. Nguyên nhân
chủ yếu do gãy xương sườn và đụng dập phần mềm thành ngực. Thường có
một vùng đau cố định, đau nhiều hơn khi hít sâu, khi ho. Đau làm hạn chế
động tác hô hấp của bệnh nhân, làm tăng tiết đờm dãi gây xẹp phổi, từ đó làm
tăng sự suy hô hấp, khiến người bệnh phải thở nhanh – mạnh hơn, lại càng
gây đau hơn trước.
+ Khó thở: Cũng như đau ngực, khó thở là một dấu hiệu quan trọng
trong CTNK. Khó thở có thể do nhiều nguyên nhân: Do TMTKMP làm cản
trở sự giãn nở và thông khí của phổi, do đau, do xẹp phổi… Chúng phối hợp
với nhau làm tình trạng suy hô hấp nặng dần và khó thở cũng tăng dần.

+ Phập phồng cánh mũi, co kéo cơ hô hấp ở hõm trên ức, dưới ức, các
khoang liên sườn, tím môi và đầu chi khi có suy hô hấp nặng.
+ Mảng sườn di động: Thường xuất hiện ở vùng có xây xát tụ máu thành
ngực. Khi hít vào – lồng ngực nở ra thì mảng sườn tụt vào và ngược lại khi
thở ra – lồng ngực xẹp xuống thì mảng sườn lại phồng lên. Khi phát hiện
MSDĐ trước phải nghĩ đến khả năng CTN hai bên.
21
+ Trần khí dưới da: Thường xuất hiện quanh cùng xây xát da, song cũng
có thể lan lên cả cổ và xuống tận bìu nếu TKMP nhiều.
+ Nhịp thở tăng ( điển hình > 25 lần/phút ), kiểu thở nhanh – nông.
+ Điểm đau chói khi sờ nắn vào thành ngực: Là dấu hiệu gợi ý của gãy
xương sườn.
+ Gõ đục hơn ở vị trí thấp, vang hơn ở vị trí cao của lồng ngực. Khi có
TMTKMP hai bên, dấu hiệu này có thể ít có giá trị.
+ Rì rào phế nang giảm hoặc mất ở bên thương tổn so với bên lành. Nếu
bị CTN hai bên có thể nhầm bên thương tổn nhẹ hơn là bình thường.
+ Chọc dò màng phổi: Chỉ định hạn chế, khi không chụp được XQ ngực
hoặc dấu hiệu trên XQ không rõ ràng. Trong cấp cứu thường chọc ở tư thế
bệnh nhân nằm ngửa. Chọc dò TKMP thường ở khoang liên sườn II đường
giữa xương đòn. Chọc dò TMMP thường ở khoang liên sườn V, VI đường
nách giữa.
+ Triệu chứng tổn thương phối hợp của các bộ phận khác: như chấn
thương sọ não, chấn thương bụng, vỡ xương chậu, chấn thương tiết niệu, chấn
thương cột sống. Khá thường gặp trong CTNK [21].
1.4.2. Triệu chứng cận lâm sàng: [3], [5], [10], [11]
- X quang ngực thẳng:
Đây là thăm dò chủ yếu trong CTN, nên chụp cho mọi trường hợp nếu
điều kiện và tình trạng bệnh nhân cho phép. Chụp tư thế đứng là tư thế chuẩn,
cho phép thấy được các hình ảnh điển hình và rõ nét của thương tổn. Tư thế
chụp nằm ngửa thường áp dụng cho trường hợp bệnh nhân nặng hoặc đa chấn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status