THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ SÀI GÒN - Pdf 25


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH L
ÖU MAI HÖÔNG
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP
QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ SÀI GÒN
Chuyên ngành
: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số
: 601405
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH Thành

hình trường Đại học ngoài công lập và trường Cao đẳng kỹ nghệ (SEC) được ra đời tháng 10 năm
1997. Đến năm 2004 theo QĐ số 57/2004 QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, trường được chuyển
lên hệ Đại học và đổi tên thành trường Đại học Công nghệ Sài Gòn (STU). Đây là một chủ trương
rất đúng đắn, hợp quy luật và phù hợp với tình hình đất nước nên loại hình trường Đại học ngoài
công lập ngày càng phát triển và giữ một vị trí nhất định trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy
nhiên, hệ thống văn bản cũng như các tài liệu hướng dẫn thực hiện quản lí nói chung và quản lí đào
tạo nói riêng đối với loại hình trường này, cho đến nay, chỉ mới hoàn thành ở bước đầu, ở mức
khung tối thiểu cần thiết, chưa có những qui định cụ thể chỉ đạo hoạt động đặc trưng của loại hình
trường này.
Hiện nay, việc quản lí hoạt động giảng dạy ở các trường đại học ngoài công lập vẫn dựa vào mô
hình quản lí giảng dạy ở trường đại học công lập, trong khi đó, trường đại học ngoài công lập có
những đặc điểm, đặc trưng khác biệt so với trường đại học công lập. Vì thế, việc quản lí, điều hành
hoạt động đào tạo ở loại hình trường đại học ngoài công lập vẫn còn phần nào mang tính áp đặt,
kinh nghiệm, mò mẫm, vừa làm vừa điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm của nhà trường sao cho
không vi phạm pháp lí mà vẫn đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
1.2. Nhìn chung, thực trạng quản lí việc giảng dạy của các trường đại học ngoài công lập chưa
có nét đặc trưng. Các biện pháp quản lí đều dựa trên mô hình quản lí của các trường công lập. Trong
khi đó các điều kiện giảng dạy của các trường đại học ngoài công lập khác xa với các trường đại
học công lập ở hai phương diện:
- Đội ngũ giảng viên: Đội ngũ giảng viên đa phần là thỉnh giảng từ các trường đại học công lập,
trình độ chuyên môn khác nhau, đôi khi các môn học chuyên ngành không phù hợp với tiêu chí và
mục tiêu đào tạo của trường. Thời gian giảng dạy eo hẹp gây khó khăn cho việc xếp lịch dạy của
nhà trường. Việc quản lí chuyên môn và sinh hoạt chuyên môn cũng khó so với đội ngũ giảng viên
cơ hữu.
- Sinh viên đầu vào được tuyển sinh theo phương thức xét tuyển nên trình độ yếu hơn so với sinh
viên các trường công lập. Sinh viên được xét tuyển vào trường phần lớn từ các tỉnh thành phía Nam
nên trình độ chênh lệch nhau khá lớn. Vì vậy phải có những phương pháp và biện pháp giảng dạy và
quản lí giảng dạy phù hợp mới có thể đạt được mục tiêu và chất lượng giáo dục của nhà trường.

1.3. Nghiên cứu về quản lí hoạt động giảng dạy ở trường Đại học ngoài công lập chưa có công

ở 7 khoa: Công nghệ thông tin, Quản trị kinh doanh, Công nghệ thực phẩm và Cơ điện tử, Kỹ thuật

công trình, Điện-điện tử, Mỹ thuật công nghiệp của trường STU và tiến hành thực nghiệm thăm dò
một số biện pháp trên khoa Công nghệ thực phẩm .
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
- Quan điểm hệ thống – cấu trúc.
- Quan điểm lịch sử - logic
- Quan điểm thực tiễn.
7.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa những
tài liệu, công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
• Phương pháp Điều tra bằng phiếu câu hỏi. Chúng tôi sử dụng phiếu hỏi gồm các câu hỏi
mở và câu hỏi đóng. Những câu hỏi xoay quanh công tác quản lí hoạt động giảng dạy và các
biện pháp quản lí hoạt động giảng dạy mà nhà trường đã áp dụng, hiệu quả của các biện pháp
QL Phiếu hỏi được thăm dò trên ba đối tượng, đó là GV và CBQL và SV năm cuối của 7 khoa
trong trường.
• Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
Chúng tôi sẽ tiến hành phỏng vấn sâu CBQL và một số GVTG về các vấn đề quản lí hoạt
động giảng dạy cũng như những biện pháp quản lí hiệu quả hoạt động giảng dạy ở trường
ĐHNCL.
• Phương pháp xin ý kiến chuyên gia. Chúng tôi sẽ gặp gỡ và trò chuyện hoặc bằng phiếu
hỏi mở các vấn đề về quản lí hoạt động giảng dạy ở trường ĐHNCL với các chuyên gia nghiên
cứu sâu về vấn đề này hoặc các nhà quản lí có nhiều kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm thăm dò 1- 2 biện pháp đề xuất trên GV khoa công nghệ thực phẩm.
7.3. Phương pháp toán: Sử dụng phần mềm SPSS for windown.

Chương 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN

những GV tốt theo tiêu chuẩn nhất định bằng những biện pháp khác nhau.

Nghiên cứu về quản lí ở bậc phổ thông, trong tác phẩm Một số kinh nghiệm lãnh đạo của hiệu
trưởng trường phổ thông V.A. Xukhomlinxki đã khẳng định:
▪ Kết quả toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng
đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên.
▪ Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ GV là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
▪ Tổ chức dự giờ, phân tích sư phạm bài giảng là đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục của đội
ngũ GV [26].
Riêng với việc tổ chức dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy của GV, V.A.Xukhomlinxki đã
thừa nhận tầm quan trọng của biện pháp này và chỉ rõ thực trạng yếu kém của việc phân tích sư
phạm bài dạy, cho dù hoạt động dự giờ và góp ý với GV sau giờ dự của HT diễn ra thường xuyên.
Từ thực trạng đó, tác giả đã đưa ra nhiều cách phân tích sư phạm bài dạy của GV.
● Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Nhiều tác giả trong nước như Nguyễn ngọc Quang “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý
giáo dục” [17], Trần Kiểm “Khoa học quản lý giáo dục”[13], Hoàng Chúng, Phạm thanh Liêm
“Một số vấn đề về lý luận quản lý giáo dục” [4],.v.v. Trong các công trình nghiên cứu của mình,
các tác giả đã đề cập đến các khái niệm, nguyên tắc quản lí giáo dục và quản lí trường học.
Các phương pháp, xu hướng quản lí trường học, quyền hạn và nhiệm vụ của Hiệu trưởng,
phương pháp và xu thế quản lí hoạt động giảng dạy trong nhà trường cũng được bàn đến trong giáo
trình “Quản lý giáo dục và trường học”[13],….. Tuy nhiên, các vấn đề quản lí giáo dục, quản lí
trường học và quản lí hoạt động giảng dạy mới chỉ được các tác giả đề cập ở bình diện tổng quát,
mang tính nguyên tắc chứ chưa cụ thể cho công tác quản lí hoạt động giảng dạy trong thực tiễn.
Tác giả Hà Sĩ Hồ và Lê Tuấn khi nghiên cứu về mục tiêu, nội dung, biện pháp quản lí nhà
trường cũng đã khẳng định: “Việc quản lí hoạt động dạy và học (hiểu theo nghĩa rộng) là nhiệm vụ
quản lí trung tâm của nhà trường” và “Người hiệu trưởng phải luôn luôn kết hợp một cách hữu cơ
quá trình dạy và học”.
Nghiên cứu về đội ngũ GV, tác giả Hoàng Tâm Sơn quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động
khoa học của GV để phát huy yếu tố nội lực của chính đội ngũ, còn tác giả Nguyễn Văn Lê thì tập
trung nghiên cứu công tác bồi dưỡng đội ngũ GV về tư tưởng chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ để

nói riêng.
Từ những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu cụ thể công tác quản lí hoạt
động dạy ở loại hình trường ngoài công lập thuộc bậc ĐH.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lí giáo dục
a. Khái niệm

Khái niệm Quản lí được hiểu theo hiều cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ, Trong l í thuyết quản trị
của Henri Fayol, một nhà quản lí kinh tế, quản lí là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức ra lệnh điều
phối và kiểm soát, còn theo Peter Drucker, “Một nhà quản trị học nổi tiếng thế giới, quản lí là một
chức năng của xã hội chuyên trách đảm bảo nguồn lực được sử dụng hiệu quả” [27]
Theo Trần Kiểm, “Quản lí là những tác dộng của chủ thể quản lí trong việc huy động, phát huy,
kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ
chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu mhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”
[13].
Theo Nguyễn Ngọc Quang, quản lí là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí đến
những người lao động nói chung là khách thể quản lí đến nhằm thực hiện những mục tiêu dự
kiến [17].
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, quản lí có thể hiểu là sự tác động có hướng đích của
chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí nhằm đạt được những kết quả cao nhất với mục tiêu đã định.
Đặc điểm chung của quản lí là tác động có tính tự giác, mục đích rõ ràng, kế hoạch cụ thể, có
phương pháp của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí nhằm đạt được mục đích đề ra.
* Quản lí giáo dục. Khái niệm quản lí giáo dục có nhiều cấp độ. Tuỳ theo từng cấp độ mà có các
khái niệm khác nhau.
- Cấp độ vĩ mô, quản lí giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch,
có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lí đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất
đến các các cơ sở giáo dục của nhà trưòng) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát
triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục [11].
Cũng có thể định nghĩa quản lí giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lí nhằm huy động,
tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát...một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực,

 Lập danh mục công việc cần làm để đạt mục tiêu
 Phân công lao động
 Phân chia bộ phận
 Thiết lập cơ chế quan hệ và thực hiện
 Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh
- Chức năng chỉ đạo (điều khiển) thể hiện qua các quá trình đưa ra các quyết định để tác động
đến các đối tượng quản lí để họ phát huy hết các tiềm năng và phát huy hết các mối quan hệ hữu cơ
với xung quanh vào việc thực hiện các chức năng của mình để tổ chức đạt được mục tiêu một cách
hiệu quả nhất.

- Chức năng kiểm tra thể hiện qua các quá trình kiểm tra nhằm xác định mức độ phù hợp với
các quyết định quản lí đã ban hành đối với hoạt động của các đối tượng quản lí. Quá trình kiểm tra
gồm 3 bước :
 Xây dựng các tiêu chuẩn giáo dục.
 Đo đạc việc thực hiện.
 Điều chỉnh các sai lệch.
1.2.2. Quản lí trường học
a. Khái niệm
Trường học là nơi truyền thụ kiến thức, nhất là ở các cấp dưới, trau dồi đạo đức cho những tập
thể trẻ em, thiếu niên hay thanh niên. Trường học cũng có thể được hiểu là toàn thể học sinh và
những người giảng dạy tại đó [Từ điển Tiếng Việt, tr.814].
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo, Trường học là một thiết chế xã hội trong đó diễn ra quá trình đào
tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố thầy – trò.
Trường học là một cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân. Với tư cách như là một tổ chức,
trường học là nơi tập trung những người thực hiện nhiệm vụ chung – dạy học, giáo dục và đào tạo
theo các mục tiêu đã đề ra, vì vậy, trường học được coi như một thể chế xã hội. Trong trường học có
hai chủ thể chính là giáo viên và học sinh, sản phẩm của trường học là nhân cách học sinh.
Quản lí trường học. Theo GS.VS Phạm Minh Hạc, quản lí nhà trường là thực hiện đường lối
GD của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí
GD, để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với ngành quản lí, với thế hệ trẻ và với từng sinh

trình (hình thức, phương pháp) đào tạo, giảng viên, sinh viên, môi trường (cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học).
- Quản lí đào tạo thực chất là quản lí chất lượng đào tạo. Chất lượng đào tạo bị chi phối bởi các
yếu tố tham gia quá trình đào tạo, tuy nhiên hai yếu tố - thành tố chính là hoạt động dạy (GV) và
hoạt động học (SV).
Vì thế, nội dung quản lí đào tạo là quản lí mục tiêu, nội dung chương trình, hoạt động dạy, hoạt
động học, và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động dạy học.
1.3. Quản lí hoạt động giảng dạy tại các trường ĐHNCL
1.3.1. Trường đại học ngoài công lập (ĐHNCL)
Trường ĐHNCL ngoài việc thực hiện những qui định của một trường ĐH nói chung về mục
tiêu, chương trình, qui trình đào tạo,...thì trường ĐHNCL có những đặc điểm sau :
- Trường được thành lập do một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức đứng ra thành lập.
Trường ĐHNCL hoàn toàn tự chủ về tài chính, có nghĩa là tự thu, tự chi, lấy thu bù chi mà không có
sự hỗ trợ của nhà nước về mặt tài chính. Nguồn tài chính đầu tư là nguồn ngoài ngân sách nhà nước

nên trường có quyền tự chủ rất cao trong việc xây dựng cơ sở vật chất theo khả năng, mua sắm trang
thiết bị phục vụ các hoạt động giảng dạy của nhà trường và toàn quyền trong việc liên kết đào tạo
với các đối tác trong và ngoài nước.
- Về mặt nhân sự, trường ĐHNCL có quyền quyết định về nhân sự, đội ngũ giảng viên,....
- Lực lượng giảng viên cơ hữu ít chủ yếu phụ trách các phòng thí nghiệm thực hành, đội ngũ
giảng viên dạy lí thuyết chủ yếu là thỉnh giảng từ nhiều nguồn khác nhau nên thiếu tính ổn định và
khó quản lí về mặt chuyên môn. Nhưng do tự chủ về tài chính nên nhà trường có thể mời được các
giảng viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, cũng như các nhà khoa học tại các viện nghiên cứu, các chuyên
gia nhiều kinh nghiệm tại các công ty, xí nghiệp sản xuất tham gia vào quá trình đào tạo.
- Đầu vào sinh viên thấp, chỉ đạt điểm sàn không đủ chuẩn vào các trường ĐHCL nên động cơ,
hứng thú học bị giảm sút, tính tích cực, độc lập trong học tập chưa cao, sự gắn kết các SV trong tập
thể lớp kém sự chặt chẽ.
Với các lí do trên đã làm cho công tác quản lí hoạt động giảng dạy ở trường ĐHNCL trở nên
phúc tạp và khó khăn, và có những nét đặc trưng riêng.
1.3.2. Quản lí hoạt động giảng dạy tại trường ĐHNCL

Hiệu trưởng quản lí hoạt động giảng dạy phải dựa vào nội dung chương trình. Vì thế, việc nắm
vững chương trình giảng dạy là tiền đề bảo đảm hiệu quả quản lí hoạt động giảng dạy. Cụ thể, hiệu
trưởng cần nắm vững những vấn đề sau:
- Những nguyên tắc cấu tạo chương trình giảng dạy của bậc học, trường học.
- Nguyên tắc cấu tạo chương trình môn học, phạm vi kiến thức từng môn.
- Phương pháp giảng dạy đặc trưng của từng môn.
- Kế hoạch giảng dạy từng môn.
Ở bậc đại học, chương trình đào tạo được xây dựng dựa trên chương trình khung của Bộ, có
chỉnh sửa đáp ứng mục tiêu và phù hợp với đặc trưng của từng trường. Vì thế, nội dung chương
trình mang tính ổn định tương đối của nó và mang tính pháp nhân.
Với các trường ĐHNCL, chương trình đào tạo cũng được xây dựng theo qui định chung của
giáo dục đại học với giới hạn các tỷ lệ khối kiến thức giữa các môn học cơ bản, các môn cơ sở và
chuyên ngành. Các môn học được xây dựng dựa trên chương trình khung của Bộ GD&ĐT, tuy
nhiên có thay đổi, cải tiến cho phù hợp với từng loại hình trường và đặc thù của địa phương, nơi
trường được xây dựng
Nội dung chương trình được cụ thể hóa dưới dạng giáo trình, tài liệu tham khảo bộ môn. Giảng
viên đại học có trách nhiệm viết giáo trình, tài liệu tham khảo bộ môn và nhà trường có trách nhiệm
in, phát hành sau khi đã hoàn tất các thủ tục về thẩm định, biên tập. Có giáo trình được lưu hành
rộng rãi, có giáo trình lưu hành nội bộ tùy theo tính chất, chất lượng của giáo trình.

Ở trường ĐHNCL, các giáo trình được Trưởng khoa duyệt về nội dung nhưng chưa được kiểm
định của Hội đồng khoa học cấp trường thì chỉ được lưu hành nội bộ khoa. Riêng tài liệu tham khảo
được thể hiện dưới hình thức kế hoạch bài giảng của giảng viên.
b. Quản lí việc thực hiện chương trình
Quản lí việc thực hiện chương trình của giảng viên là quản lí việc dạy đúng, dạy đủ chương
trình qui định. Thực hiện yêu cầu này, Hiệu trưởng hoặc Trưởng khoa phải làm một số việc sau:
- Yêu cầu giảng viên lập kế hoạch giảng dạy môn học. Kế hoạch sau khi xây dựng cần trao đổi
kỹ trong tổ chuyên môn.
- Bảo đảm thời gian qui định của chương trình (biên chế năm học). Nghiêm cấm việc cắt xén
chương trình để dành thời gian cho các hoạt động khác.

+ Thiết kế bài dạy, bao gồm nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức.
- Chỉ đạo tổ chuyên môn xác định thống nhất hệ thống mục tiêu, chuẩn kiến thức bài dạy, trao
đổi phương hướng giảng dạy từng bài, những bài khó, những tư liệu mới cần bổ sung vào bài dạy,
những thiết bị cần thiết cho bài dạy.
- Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại kế hoạch bài dạy, kế hoạch môn dạy.
- Kiểm tra định kỳ và đột xuất việc lập và sử dụng hiệu quả kế hoạch bài dạy, kế hoạch môn
dạy.
Riêng ở trường ĐHNCL có thể áp dụng những yêu cầu trên cho GV trẻ, giảng viên cơ hữu. Đối
với giảng viên GV thỉnh giảng khó có thể áp dụng như trên vì thế quản lí việc chuẩn bị lên lớp của
GV thỉnh giảng có thể :
- Yêu cầu mỗi giảng viên khi nhận lời giảng cần viết đề cương chi tiết môn dạy, làm rõ khối
lượng kiến thức lí thuyết, thực hành, nội dung kiểm tra, đánh giá, sau đó nộp về khoa.
- Nếu có thể, yêu cầu giảng viên viết tài liệu tham khảo hay giáo trình về môn mình dạy để
thuận tiện cho việc quản lí chuyên môn của khoa.
1.4.2.2 Quản lý hoạt động lên lớp của giảng viên
Hoạt động lên lớp không chỉ là việc GV triển khai kế hoạch bài dạy đã thiết kế ở trên lớp, mà
còn thể hiện tài nghệ sư phạm của GV trước các tình huống cụ thể của lớp học. Qua việc lên lớp,
GV có dịp nhìn lại kĩ năng dạy học của mình từ đó mà điều chỉnh, rèn luyện.
Nhà tâm lý học John Deway đã nhấn mạnh rằng: Việc học để làm GV và trở thành một GV
thành đạt trong nghề không thể xảy ra như một phép lạ; nó không chỉ phụ thuộc vào sự cố gắng của
bản thân mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ tương tác giữa GV và các đồng nghiệp của họ.
Quản lí hoạt động lên lớp của GV thông qua hoạt động dự giờ và góp ý về bài dạy của đồng
nghiệp. Hơn nữa, việc dự giờ dạy của những GV có nhiều kinh nghiệm và đã thành công trong công

tác giảng dạy sẽ giúp cho các GV khác, nhất là đối với những GV trẻ mới bước vào nghề học hỏi
được những kinh nghiệm hay để vận dụng vào việc cải tiến việc lên lớp của bản thân.
Để quản lí tốt việc dự giờ, Hiệu trưởng hoặc Trưởng khoa cần hướng dẫn Tổ bộ môn và giảng
viên các yêu cầu dưới đây :
- Quán triệt tinh thần khoa học, trách nhiệm nghề nghiệp trong dự giờ và góp ý giờ dạy. Xây
dựng mối quan hệ tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần khoa học, xây dựng, đoàn kết giữa các

quan đến ngôn ngữ, hình dáng và cử chỉ điệu bộ tạo không khí tự nhiên và giao tiếp tích cực trong
lớp học. (1 điểm)
- Tổ bộ môn lập kế hoạch dự giờ như thời gian, địa điểm, bài dạy, giảng viên dạy, lớp dạy,
phiếu dự giờ, cách thức thu thập dữ liệu và phổ biến đến toàn thể GV trong Tổ bộ môn trước khi giờ
dạy diễn ra ít nhất một tuần.
- Khi dự giờ cần quan sát và ghi chép diễn biến của bài dạy theo mẫu đã được thống nhất trước.
- Sau khi dự giờ, từng GV độc lập phân tích các dữ liệu so sánh với tiêu chí và chuẩn đánh giá
bài dạy đã đề ra.
- Góp ý về bài dạy cần nêu lên những mặt đạt được, mặt tích cực, chỉ ra những tồn tại trong bài
dạy cần cải thiện, gợi ý những phương hướng khắc phục những tồn. Lưu ý tránh tranh luận gay gắt,
chuyển từ xung động sự vụ, khoa học thành xung động nhân cách tạo nên sự bất hòa, gây mất đoàn
kết nội bộ giảng viên.
- Phổ biến, nhân rộng những ưu điểm, thành tích của giảng viên qua dự giờ trong tập thể giảng
viên.
Những điều trình bày ở trên khi áp dụng vào hoạt động dạy học ở đại học sẽ phải linh hoạt và
mềm dẻo hơn. Chẳng hạn đối với GV trẻ, khoa nên tổ chức dự giờ thường xuyên để góp ý cho GV
trẻ về mục tiêu, nội dung kiến thức, phương pháp, tác phong đứng lớp, xử lí các tình huống xảy ra ở
trên lớp như những điều đã trình bày ở trên.
Với GV không trẻ hoặc GV thỉnh giảng nên báo trước về kế hoạch dự giờ của họ nhằm mục
đích chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy giữa các thế hệ GV trong khoa, trong trường góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ GV và chất lượng dạy học.
- Quản lí giờ lên lớp của giảng viên đại học còn được thực hiện thông qua việc kiểm tra thường
xuyên của Trưởng khoa, Trưởng bộ môn hoặc thông tin phản hồi của giám thị hoặc từ sinh viên.
Dựa trên những thông tin phản hồi này mà trường, khoa điều chỉnh công tác quản lí hoạt động giảng
dạy nói chung và hoạt động lên lớp nói riêng của giảng viên, nhất là đối với giảng viên thỉnh giảng.
Quản lí chuyên môn tại trường đại học đã khó bởi mỗi giảng viên đều là nhà khoa học, nhất là
quản lí chuyên môn đối với đội ngũ giảng viên có học hàm, học vị tiến sĩ hoặc phó giáo sự, giáo sư.
Ở các trường đại học, việc quản lí chuyên môn giao hẳn về cho khoa và trực tiếp là trưởng bộ môn.
Còn các trường ĐHNCL, việc quản lí chuyên môn còn gặp nhiều khó khăn hơn do tính phức tạp của


Quản lí đội ngũ giảng viên bao gồm nhiều khâu như tuyển chọn, sử dụng, bồi dưỡng nâng
cao trình độ. Với trường ĐHNCL, việc quản lí đội ngũ GV sẽ phải chia thành hai mảng, đó là quản

lí đội ngũ GV cơ hữu và quản lí đội ngũ GV thỉnh giảng sao cho đội ngũ GV ngày càng được phát
triển về số lượng và chất lượng.
1.4.3.1 Quản lí tuyển chọn giảng viên
Việc tuyển chọn giảng viên ở các trường đại học thực hiện theo đơn vị khoa và phụ thuộc vào
yêu cầu nhân sự của từng khoa. Vì thế :
- HT phối hợp với Ban chủ nhiệm các khoa, phòng tổ chức nhân sự xây dựng qui định, nguyên
tắc tuyển dụng giảng viên cho nhà trường.
- Yêu cầu mỗi khoa lên kế hoạch tuyển dụng giảng viên, trong đó ghi rõ số lượng, chuyên môn,
hình thức tuyển dụng, thời gian,...
- HT chỉ thị cho từng khoa tiến hành tuyển dụng giảng viên như kế hoạch. Phân công nhân sự,
phối hợp giữa các bộ phận để việc tuyển dụng thu được kết quả tốt.
- HT theo dõi, kiểm tra, điều chỉnh (nếu cần) qui trình tuyển dụng giảng viên của từng khoa.
Với các trường ĐHNCL, cần lưu ý đến việc mời giảng viên thỉnh giảng – một lực lượng tham
gia giảng dạy không thể thiếu ở trường. Khi mời giảng viên thỉnh giảng cần mời những giảng viên
có trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, có uy tính và kinh nghiệm giảng dạy ở các trường cao đẳng,
đại học. Ngoài ra, trường ĐHNCL còn mời thêm các cán bộ kĩ thuật có nhiều kinh nghiệm thực tế
về chuyên ngành trường đào tạo và có khả năng giảng dạy sẽ đảm nhận giảng dạy các chuyên đề,
các môn tự chọn và hướng dẫn khóa luận hay đồ án tốt nghiệp của sinh viên.
1.4.3.2 Quản lí việc phân công giảng dạy
Phân công giảng dạy thực chất là công tác tổ chức của cán bộ quản lí dựa trên năng lực, trình độ
của từng giảng viên để phân công cho phù hợp. Việc phân công này phải tạo điều kiện cho các
giảng viên được thể hiện mình trong tập thể sư phạm một cách tốt nhất, từ đó tạo niềm tin cho các
giảng viên trong nghề nghiệp.
Phân công giảng dạy là một công việc hết sức quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm,
tư tưởng của cá nhân và đơn vị, phát huy hay kìm hãm năng lực của giảng viên trong giảng dạy.
Nhất là với trường đại học ngoài công lập, giảng viên cơ hữu còn mỏng về số lượng, trẻ về kinh
nghiệm giảng dạy nên số giảng viên thỉnh giảng có trình độ đang giữ vị trí quan trọng trong hoạt

giảng thử của giảng viên trẻ, phản ánh của đồng nghiệp và kiến của sinh viên đối với giảng viên
thỉnh giảng,.....
* Nguyên tắc bồi dưỡng
- Thống nhất giữa bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn, nghiệp vụ và các nhiệm vụ
được đặt ra từ thực tiễn.
- Thu hút giảng viên vào các hình thức học tập và tự học.

- Tận dụng các thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục và kinh nghiệm tiên tiến vào bồi
dưỡng.
- Chú ý đến nhu cầu bồi dưỡng của giảng viên.
* Nội dung bồi dưỡng bao gồm
- Bồi dưỡng những kiến thức về quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và nhà nước đối với
giáo dục đại học.
- Bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành để giảng viên được cập nhật, bổ sung những kiến thức mới,
hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của khoa học.
- Bồi dưỡng kiến thức về phương pháp giảng dạy, các kĩ thuật dạy học hiện đại nhằm nâng cao
tay nghề của giảng viên. Đây là vấn đề mang tính thời sự hiện nay, nhất là các trường đại học đang
chuẩn bị chuyển từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ thì đổi mới PPDH theo hướng
phát huy khả năng tự học của SV là một vấn đề bức xúc.
- Bồi dưỡng kiến thức công cụ (tin học, ngoại ngữ) để tạo điều kiện cho mỗi giảng viên tự học
để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ.
* Hình thức bồi dưỡng
- Khuyến khích giảng viên tự học và nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và
rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho bản thân.
- Tạo điều kiện và khuyến khích giảng viên đi học tập trung hoặc không tập trung, dài hạn hoặc
ngắn hạn các lớp bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ hay các trường đại học mở trong
nước hoặc ngoài nước.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề cho giảng viên ngay tại trường để tạo điều kiện thuận lợi
cho tất cả giảng viên tham gia.
- Tổ chức các Hội nghị, Hội thảo khoa học cấp khoa, cấp trường hoặc động viên giảng viên

Nói về quản lí đội ngũ GV, không thể không nói tới việc xây dựng môi trường sư phạm, ở đó,
cán bộ quản lí, giảng viên cơ hữu, giảng viên thỉnh giảng thực sự tin cậy, cởi mở, chia sẻ và hợp tác.
Có như vậy, đội ngũ GV mới hăng say làm việc như người chủ thực sự và những kho khăn trong
công tác giảng dạy sẽ được từng giảng viên cố gắng khắc phục, vượt qua, qua đó công tác giảng dạy
được đảm bảo, chất lượng đào tạo được nâng cao.
1.4.4 Quản lí cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giảng dạy
Quá trình dạy học được cấu thành bởi nhiều thành tố có liên quan chặt chẽ và tương tác với
nhau. Các thành tố đó là mục tiêu, nội dung, phương pháp, học viên, giảng viên, và cơ sở vật chất.
Mối quan hệ này được hình thành trong quá trình dạy học, trong đó cơ sở vật chất là một thành tố
không thể thiếu được.

Cơ sở vật chất bao gồm phòng học, sân bãi, phòng thí nghiệm, bàn ghế, tài liệu học tập, thiết bị
kĩ thuật dạy học,... Cơ sở vật chất, thiết bị máy móc đầy đủ, chất lượng tốt sẽ góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao chất lượng dạy học, giúp giảng viên tổ chức điều khiển tối ưu quá trình học tập
của sinh viên.
Quản lí CSVC, thiết bị dạy học phục vụ hoạt động giảng dạy cần phải :
- Nhà trường lên kế hoạch xây mới, tu sửa cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo có đủ không
gian phục vụ hoạt động học tập của SV.
- Dựa trên ý kiến đề xuất của các khoa, nhà trường lên kế hoạch mua mới, sửa chữa các thiết bị
kĩ thuật phục vụ dạy học trong nhà trường.
- Mỗi khoa lên kế hoạch sử dụng cơ sở vật chất đặc biệt là thiết bị kĩ thuật dạy học như kế hoạch
sử dụng phòng thí nghiệm, nhà xưởng, thiết bị kĩ thuật gửi về phòng hành chính quản trị nhằm khai
thác hiệu quả CSVC và thiết bị dạy học hiện có trong trường.
- Nhà trường thành lập tổ bảo trì trực thuộc phòng hành chính quản trị có nhiệm vụ bảo trì, tu
sửa trang thiết bị dạy học và trợ giúp GV khi lắp đặt, sử dụng ở trên lớp.
- Nhà trường cần phổ biến những nội qui, yêu cầu về mặt kĩ thuật cho GV và cán bộ trong
trường để sử dụng đúng, hiệu quả các thiết bị kĩ thuật góp phần nâng cao độ bền và tuổi thọ của
thiết bị máy móc.
- Trường cần quán triệt đến GV trong trường, khoa không nên quá phụ thuộc hay lạm dụng các
thiết bị kĩ thuật vừa tốn thời gian, công sức của GV, vừa không đem lại các kết quả dạy học như


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status