527 Phát triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2020  - Pdf 25

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
WX MAI THỊ ÁNH TUYẾT
PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH AN GIANG NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

năng phong phú về lợi thế phát triển du lịch, tỉnh An Giang xác định từng bước
đưa ngành du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần tích cực
trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, trên cơ sở tận
dụng tiềm năng sẳn có kết hợp sự đầu tư đúng mức và sự hỗ trợ, quan tâm của
nhà nước để tạo điều kiện tốt nhất cho ngành du lịch phát triển.

Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh An Giang có những bước phát
triển, nhưng so với lợi thế thì mức độ khai thác, phát triển chưa cao. Công tác
quản lý còn nhiều bất cập, nội dung chương trình du lịch chưa phong phú, sản

3
phẩm du lịch còn đơn điệu, chất lượng phục vụ chưa cao, nguồn nhân lực phục
vụ du lịch còn thấp và khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế...Các công trình
đã nghiên cứu về phát triển du lịch tỉnh An Giang như Quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2010 và một số công trình nghiên cứu
khác có liên quan đến phát triển du lịch tỉnh An Giang chưa đi sâu vào nghiên
cứu một cách hệ thống và xây dựng phương pháp luận về phát triển du lịch,
chưa khảo sát, đánh giá một cách đầy đủ về thực trạng du lịch tỉnh An Giang,
đặc biệt là chưa định hướng rõ nét phát triển du lịch tỉnh An Giang trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Từ thực trạng phát triển ngành du lịch của tỉnh
An Giang hiện nay thì việc nghiên cứu đề tài “ Phát triển du lịch tỉnh An Giang
đến năm 2020 “ trên cơ sở khảo sát đánh giá và đề ra giải pháp đẩy mạnh phát
triển du lịch tỉnh An Giang là điều rất cấp thiết. Nhằm nghiên cứu làm rõ nét
những vấn đề lý luận và thực tiển về phát triển du lịch trong bối cảnh toàn cầu
hóa và nền kinh tế tri thức. Từ đó xác lập các nguyên tắc, tiêu chuẩn phát triển
du lịch phù hợp với bối cảnh phát triển du lịch tỉnh An Giang, định hướng cho
ngành du lịch những bước đi hiệu quả nhất, tác động chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh thông qua việc xác định một cách đúng hướng về cách nhìn, cách
làm ăn và phải có cách đối phó đối thủ cạnh tranh để tồn tại và phát triển.



Trong quá trình nghiên cứu, đề tài kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện luận án: Phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp khảo sát, phương pháp điều tra, phương pháp thu
thập và xử lý thông tin, phương pháp chuyên gia, nghiên cứu tư liệu...

Nguồn tài liệu nghiên cứu gồm các thông tin, số liệu, văn bản có liên
quan đến phát triển du lịch. Trên cơ sở đó, luận án kế thừa, bổ sung, vận dụng,
tổng hợp các kết quả đó để đưa ra nhận định chung có liên quan đến việc phát
triển ngành du lịch.

4/. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỂN CỦA ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU:

- Luận án làm rõ nét những vấn đề lý luận và thực tiển về phát
triển du lịch trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức như : những lý
luận cơ bản về du lịch, khái niệm, đặc tính của phát triển du lịch, các loại hình
du lịch chủ yếu, khái niệm những điều kiện cấu thành các loại hình du lịch
...Từ đó, xác lập các nguyên tắc, tiêu chuẩn phát triển du lịch phù hợp với bối
cảnh phát triển du lịch tỉnh An Giang. 5
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành du lịch, để
đánh giá và sử dụng chúng như một công cụ trong xây dựng các giải pháp phát
triển du lịch của tỉnh An Giang.

- Tổng hợp những kinh nghiệm một số nước trên thế giới thành công
trong phát triển du lịch, liên hệ hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam cụ thể tỉnh
An Giang để đề xuất những giải pháp phát triển du lịch một các phù hợp và

1.1. DU LỊCH, PHÁT TRIỂN DU LỊCH:

1.1.1. Khái niệm du lịch:

Khái niệm về du lịch có nhiều cách hiểu do được tiếp cận bằng nhiều
cách khác nhau. Quan niệm về du lịch theo cách tiếp cận phổ biến cho rằng du
lịch là một hiện tượng trước thế kỷ thứ XIX đến tận đầu thế kỷ XX du lịch hầu
như vẫn được xem là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý tộc và người ta chỉ
xem đây như một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế-xã hội. Trong thời
kỳ này, du lịch như một hiện tượng xã hội góp phần làm phong phú thêm cuộc
sống và nhận thức của con người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư
trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ
mục đích tìm kiếm việc làm và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được ở nơi
khác.

Du lịch là một hệ thống tinh thần và vật chất trong đời sống xã hội, là
một loại hiện tượng kinh tế xã hội tổng hợp. Du lịch do ba yếu tố cơ bản là du
khách, tài nguyên du lịch và ngành du lịch cấu thành. Lữ hành và du lịch đã có
từ lâu, trãi qua quá trình phát triển lâu dài, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau,
hoạt động lữ hành và du lịch có các hình thức biểu hiện và đặc trưng khác
nhau. Lịch sử phát triển du lịch trên thế giới nói chung khái quát thành ba giai
đoạn: Lữ hành thời cổ ( trước những năm 40 của thế kỹ XIX), du lịch cận đại (
từ những năm 40 của thế kỹ XIX đến chiến tranh thế giới thứ hai), ba là du lịch
hiện đại ( sau chiến tranh thế giới thứ hai). Sau chiến tranh thế giới lần thứ II,
ngành du lịch phát triển mạnh và trở thành một trong những ngành có tốc độ
phát triển nhanh và ổn định của kinh tế thế giới. 7
Qua nhiều thời kỳ phát triển, khái niệm về du lịch có những thay đổi

cách bền vững.

8
1.1.2. Khái niệm về khách du lịch :
Việc xác định ai là du khách ( khách du lịch) có nhiều quan điểm khác
nhau, để phân biệt giữa khách du lịch, khách tham quan và lữ khách dựa vào 3
tiêu thức: Mục đích, thời gian, không gian chuyến đi.
Theo nhà kinh tế học người Anh, ông Ogilvie cho rằng: “ khách du lịch
là tất cả những người thỏa mãn 2 điều kiện: rời khỏi nơi ở thường xuyên trong
khoảng thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm mà
không kiếm tiền ở đó”. Khái niệm này chưa hoàn chỉnh vì nó chưa làm rõ được
mục đích của người đi du lịch và qua đó để phân biệt được với những người
cũng rời khỏi nơi cư trú của mình nhưng lại không phải là khách du lịch.
Nhà xã hội học Cohen quan niệm: “ Khách du lịch là một người đi tự
nguyện, mang tính nhất thời, với mong muốn được giải trí từ những điều mới
lạ và sự thay đổi thu nhận được từ một chuyến đi tương đối xa và không
thường xuyên”.
Năm 1937 Ủy Ban Thống kê Liên Hiệp quốc đưa ra khái niệm về du
khách quốc tế như sau: “ Du khách quốc tế là những người thăm viếng một
quốc gia ngoài quốc gia cư trú thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất là
24 giờ”.
Tuy nhiên, trong thực tế lượng khách tham quan giải trí trong thời gian ít
hơn 24 giờ ngày càng nhiều và không thể không tính đến tiêu dùng của họ
trong thống kê du lịch, do đó đã nãy sinh ra khái niệm về khách tham quan.
Khách tham quan là những người đi thăm và giải trí trong khoảng thời gian
dưới 24 giờ.
Từ những khái niệm trên, cho ta nhận định rằng khách du lịch (du khách)
là những người đi vì lý do giải trí, lý do sức khỏe, gia đình…, những người đi
tham gia các hội nghị, hội thảo của các tổ chức, các đại hội thể thao…hoặc
những người đi với mục đích kinh doanh công vụ (tìm hiểu thị trường, ký kết

khách thể thao, du khách thám hiểm, du khách giao lưu văn hóa, du khách tôn
giáo ; Phân chia theo hình thức tổ chức gồm du khách tập thể, du khách cá
nhân, du khách bao trọn gói; Phân chia theo phương tiện giao thông được sử
dụng gồm du khách hàng không, du khách đường sắt, du khách ô tô, du khách
đường thủy; Phân chia theo nguồn chi phí gồm du khách tự túc, du khách được
tổ chức cấp kinh phí, du khách được thưởng.

Từ việc phân loại du khách trên, có ý nghĩa rất quan trọng sẽ giúp cho
các nhà hoạch định chiến lược phát triển du lịch, các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch xác định rõ chủ thể du lịch là đối tượng nào để có sự phối hợp nhịp
nhàng, khai thác có hiệu quả, phù hợp của khách thể du lịch, môi giới du lịch,

10
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút khách du lịch và tác động cho hoạt
động du lịch có hiệu quả.
1.1.3. Phân loại du lịch :
Hiện nay chưa có tiêu chuẩn thống nhất để phân loại du lịch, ngành du
lịch thế giới đang phát triển nhanh, số người tham gia hoạt động du lịch ngày
càng đông. Mỗi người đều căn cứ vào điều kiện kinh tế, thời gian nhàn rỗi và
mục đích du lịch của mình để xác định hình thức du lịch khác nhau. Cùng với
sự phát triển không ngừng của du lịch, phạm vi hoạt động ngày càng có xu thế
phát triển, nội dung hoạt động ngày càng mở rộng và các loại hình du lịch cũng
dần dần tăng lên. Các loại hình du lịch có thể phân chia như sau:
- Phân loại theo mục đích du lịch: Theo sự phân loại về mục đích thăm
viếng của du khách ở Hội nghị du lịch quốc tế La Mã của Liên Hiệp Quốc, du
lịch được chia ra: du lịch nghỉ phép, du lịch thương mại, du lịch điều trị dưỡng
bệnh, du lịch du học, du lịch hội nghị, du lịch thăm viếng người thân, du lịch
tôn giáo, du lịch thể dục thể thao và các du lịch khác.
- Phân chia theo phạm vi khu vực: Căn cứ vào phạm vi khu vực có thể
chia du lịch thành: du lịch trong nước và du lịch quốc tế. Du lịch trong nước là

 Du lịch hội nghị: Một số nơi tận dụng dịp tiếp đãi hội nghị gắn
hội nghị và du lịch với nhau tức là vừa hội nghị vừa du lịch. Đặc
điểm của loại du lịch này là địa vị của du khách cao, thời gian lưu
lại dài, khả năng mua sắm mạnh. Hình thức du lịch này đang phát
triển mạnh trên thế giới, trở thành một bộ phận chiếm tỉ trọng lớn
của thị trường du lịch quốc tế.
 Du lịch tôn giáo: Đây là hình thức du lịch cổ xưa tiếp tục đến nay,
chủ yếu là kết quả của sự tồn tại và ảnh hưởng của tôn giáo phản
ảnh trên tư tưởng con người. Ở Trung Quốc và một số nước Đông
Nam Á có lịch sử lâu đời và hình thức kiến trúc phong phú đa
dạng đã thu hút các tín đồ tôn giáo tín ngưỡng khác nhau và đã thu
hút nhiều du khách đến tham quan du ngoạn.
Việc phân loại du lịch trên có ý nghĩa rất quan trọng, sẽ giúp cho ta khai
thác lợi thế, tiềm năng du lịch, xác định được thế mạnh của cơ sở kinh doanh
du lịch, từ đó có thể xác định được cơ cấu khách hàng, mục tiêu của điểm du
lịch, tạo điều kiện đưa hoạt động ngành du lịch ngày càng phát triển tốt nhất.
1.1.4. Sản phẩm du lịch:

1.1.4.1. Khái niệm:
Khái niệm về sản phẩm du lịch cần được xác định một cách rõ ràng, đặc
biệt là trong những lĩnh vực du lịch. Một sản phẩm du lịch là một tổng thể
những yếu tố có thể thấy được hoặc không thấy được, nhưng lại làm thỏa mãn
cho những khách hàng nhất định.

12
Những đặc tính địa lý ( bãi biển, núi rừng, sông suối, khí hậu, không gian
thiên nhiên…) cũng như hạ tầng cơ sở ( khách sạn, nhà hàng, đường bay…)
bản thân chúng không phải là một sản phẩm du lịch, nhưng chúng trở thành sản
phẩm du lịch trong những tình trạng nào đó.
Kotler và Turner đã định nghĩa về sản phẩm du lịch một cách rộng rãi

Việc hiểu rõ khái niệm sản phẩm du lịch là khởi điểm của việc nghiên
cứu vấn đề kinh tế du lịch. Trong hoạt động kinh tế du lịch, du khách bỏ ra một
thời gian và sức lực nhất định, chi tiêu một khoản tiền nhất định để mua của
người kinh doanh du lịch không phải vật cụ thể mà là sự thỏa mãn và hưởng
thụ nhiều hơn về tinh thần, là quá trình du lịch hoàn chỉnh một lần, trong đó
bao gồm nhiều loại dịch vụ do đích tới cung cấp. Quá trình du lịch một lần
như vậy tức là một sản phẩm du lịch, trong đó một hạng mục dịch vụ du lịch
như một giường ở phòng khách sạn, một bữa cơm trưa thịnh soạn được gọi là
sản phẩm du lịch. Có thể thấy sản phẩm du lịch là do nhiều hạng mục sản phẩm
du lịch hợp thành là sản phẩm vô hình mang đặc trưng hoàn chỉnh.
Theo chúng tôi, sản phẩm du lịch là một khái niệm tổng thể. Trong thực
tế kinh doanh, một loại sản phẩm du lịch thường do xí nghiệp và bộ phận du
lịch trực thuộc một số ngành nghề nhưng độc lập với nhau cung cấp, các xí
nghiệp và bộ phận này căn cứ vào tính chất của mình tự tổ chức dịch vụ đã
định xoay quanh thị trường mục tiêu riêng. Mặt khác, nhu cầu của du khách là
hoàn chỉnh, nơi du lịch chỉ thỏa mãn một số nhu cầu của họ về ở, ăn, đi lại, du
ngoạn, vui chơi giải trí, mua sắm…Nói cách khác, đối với quần thể du khách,
nơi đích tới du lịch chỉ có thể kết hợp một cách hữu cơ các sản phẩm du lịch
đơn lẻ mới có thể tạo ra sản phẩm du lịch phù hợp với nhu cầu du khách. Sự ra
đời của Công ty du lịch và sự xuất hiện của du lịch trọn gói đã thích ứng với
yêu cầu khách quan này, họ kết hợp toàn bộ sản phẩm du lịch đơn lẻ thành sản
phẩm du lịch thỏa mãn các nhu cầu của du khách trong quá trình du lịch.
Do đó, bất kể đối với cơ quan quản lý du lịch hay xí nghiệp du lịch, hiểu
được khái niệm du lịch một cách thiết thực và xây dựng ý thức sản phẩm du
lịch hoàn chỉnh đều hết sức cần thiết. Xét về nhu cầu, khi du khách tiến hành
quyết định nơi đích tới du lịch thì vấn đề họ quan tâm là sản phẩm du lịch hoàn
chỉnh chứ không phải sản phẩm du lịch đơn lẻ, sự đánh giá của du khách đối
với chất lượng sản phẩm du lịch cũng xuất phát từ điểm này. Vì thế thực sự
hiểu được khái niệm này sẽ có lợi cho việc phát triển lành mạnh của ngành du
lịch, có lợi cho sự tăng cường ý thức hợp tác của người kinh doanh du lịch,

lịch cung cấp cho du khách ngoài sản phẩm vật chất hữu hình như ăn uống,
phần nhiều thể hiện bằng các loại dịch vụ, tuy về tính chất có sự khác biệt,
nhưng về bản chất đều lấy sản phẩm vật chất hữu hình, vật tự nhiên và hiện
tượng xã hội vật thể chuyên chở để cung cấp dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu
du lịch của du khách. Dịch vụ du lịch là một khái niệm hoàn chỉnh, là do các
dịch vụ đơn lẻ kết hợp làm thành, phải duy trì sự phối hợp tạo ra sự đánh giá
tốt của du khách về sản phầm du lịch hoàn chỉnh.
1.1.4.3. Đặc điểm của sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm đặc biệt, sản phẩm du lịch chủ
yếu có các đặc điểm:

15
- Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch : Được quyết định bởi tính xã
hội của hoạt động du lịch và tính phức tạp của nhu cầu du lịch. Hoạt động du
lịch là hoạt động trên nhiều mặt, bao gồm các hoạt động xã hội, kinh tế, văn
hóa, chính trị, giao lưu dân gian và giao lưu quốc tế, ngoài ra nhu cầu của du
khách trong hoạt động du lịch cũng nhiều mặt, vừa bao gồm nhu cầu đời sống
vật chất cơ bản vừa bao gồm nhu cầu cuộc sống tinh thần ở cấp cao hơn. Tính
chất của hoạt động du lịch và đặc điểm khách quan trong nhu cầu của du khách
đòi hỏi sản phẩm du lịch phải có tính tổng hợp tương ứng trước thị trường du
lịch.
Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch biểu hiện trước hết là sản phẩm du
lịch kết hợp các loại dịch vụ du lịch liên quan cung cấp, nhằm thỏa mãn các
nhu cầu của du khách. Nó vừa bao gồm sản phẩm lao động và vật tự nhiên.
Đồng thời, tính tổng hợp của sản phẩm du lịch còn biểu hiện ở chỗ việc sản
xuất và kinh doanh sản phẩm du lịch liên quan đến nhiều ngành nghề và bộ
phận. Trong đó, vừa có giao thông du lịch và liên quan đến các bộ phận và
ngành nghề khác ngoài bộ phận du lịch, trong đó vừa có bộ phận sản xuất tư
liệu vật chất như kiến trúc, công nghiệp nhẹ, sản xuất nông sản phẩm, vừa bao
gồm một số bộ phận phi sản xuất vật chất như văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ

- Tính dễ dao động: Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch
chịu ảnh hưởng và hạn chế của nhiều nhân tố, trong đó dù chỉ thiếu một điều
kiện cũng sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình trao đổi sản phẩm du lịch, ảnh
hưởng tới việc thực hiện giá trị sẩn phẩm du lịch, từ đó khiến việc sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm du lịch thể hiện đặc điểm dễ dao động.
Như thế, sản phẩm du lịch bao gồm các dịch vụ du lịch, các hàng hóa và
tiện nghi cung ứng cho du khách, nó được tạo nên bởi sự kết hợp các yếu tố tự
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động du lịch tại một vùng, một địa phương
nào đó. Do vậy, sản phẩm du lịch bao gồm những yếu tố hữu hình ( hàng
hóa) và những yếu tố vô hình ( dịch vụ) để cung cấp cho du khách hay nó bao
gồm các hàng hóa, các dịch vụ và tiện nghi phục vụ khách du lịch.

Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + các dịch vụ và hàng hóa du lịch.
Từ phân tích trên, theo chúng tôi có nhận định như sau :
- Do tính tổng hợp của sản phẩm du lịch, nơi đích tới du lịch tiến hành
quy hoạch toàn diện, sắp xếp điều chỉnh nhịp nhàng việc sản xuất và kinh
doanh sản phẩm du lịch là rất cần thiết. Mặc dù trong điều kiện kinh tế lấy điều
tiết thị trường làm chính nhưng vẫn không thể bỏ qua tác dụng thực hiện quản
lý toàn diện của ngành du lịch. Mỗi người kinh doanh du lịch đều phải nhận
thức được rằng chất lượng mỗi bộ phận của sản phẩm du lịch là cơ sở của hình
ảnh hoàn chỉnh của nơi du lịch.
- Đặc trưng tính không thể dự trữ của sản phẩm du lịch cho thấy trong
sản xuất sản phẩm du lịch và thực hiện giá trị phải lấy việc mua thực tế của du
khách làm tiền đề, “Khách hàng là thượng đế”. Đồng thời phải tuân thủ quy

17
hoạch nhu cầu du lịch, tăng cường quan niệm kinh tế hàng hóa, vạch ra sách
lược kinh doanh đúng đắn, giải quyết tốt các quan hệ thị trường, cạnh tranh và
kiếm lãi.
- Do tính không thể chuyển dịch của sản phẩm du lịch, việc lưu thông sản

lịch, việc sản xuất sản phẩm du lịch có quan hệ mật thiết với các ngành nghề

18
liên quan, sự phát triển của ngành du lịch còn lệ thuộc vào sự phối hợp nhịp
nhàng lẫn nhau giữa ngành du lịch với các ngành nghề khác. Hơn nữa, việc sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch tất yếu liên quan tới các nhân tố nhiều mặt về
chính trị, kinh tế, xã hội, thiên nhiên của nơi đích tới du lịch và nơi nguồn
khách như cơ cấu nhân khẩu, trình độ phát triển của kinh tế quốc dân, quan hệ
quốc tế, chính sách của chính phủ, chiến tranh, hối suất, quan hệ mậu dịch. Đây
là các nhân tố mà ngành du lịch không kiểm soát được.
1.1.4.4. Sản phẩm đơn lẻ và sản phẩm tổng hợp:
Bất kỳ sản phẩm du lịch nào cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du
lịch. Sản phẩm du lịch có thể là sản phẩm đơn lẻ, có thể là sản phẩm tổng hợp,
do một đơn vị cung ứng trọn gói hay do nhiều đơn vị kinh doanh cùng tham gia
cung ứng.
Sản phẩm đơn lẻ: Là sản phẩm do các nhà cung ứng đưa ra nhằm thỏa
mãn một nhu cầu cụ thể của khách. Ví dụ một khách sạn có dịch vụ cho khách
du lịch thuê xe tự lái. Các nhà cung ứng có thể là khách sạn, có thể là nhà hàng,
có thể là hãng vận chuyển...Chẳng hạn như một sản phẩm cụ thể của khách sạn
Đông Xuyên-TP Long Xuyên khách du lịch có thể chỉ sử dụng bữa ăn trưa
hoặc cho thuê phòng ngủ qua đêm, sản phẩm của công viên nước ...Tuy nhiên
người du lịch không chỉ thỏa mãn bởi một dịch vụ mà trong chuyến đi du lịch
của họ phải được thỏa mãn nhiều nhu cầu do những sản phẩm đó tạo nên. Hay
nói cách khác là họ đòi hỏi phải có các sản phẩm tổng hợp.
Sản phẩm trọn gói : Là sản phẩm phải thỏa mãn đồng thời một nhóm
nhu cầu mong muốn của khách du lịch. Chẳng hạn chương trình ( tour) du lịch
trọn gói bao gồm nhiều dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú,
dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí...Sản phẩm tổng hợp cũng có thể do
một khách sạn cung ứng. Ví dụ khách đặt bữa tiệc tại khách sạn ngoài dịch vụ
chính là bữa tiệc, khách có thể có nhu cầu được phục vụ các dịch vụ khác như

Chức năng cơ bản của thị trường du lịch là làm cầu nối liên kết cung cấp du
lịch với nhu cầu du lịch.
Để phân tích nghiên cứu toàn diện xu hướng phát triển của thị trường du
lịch thế giới, cần nắm vững quy luật biến đổi của thị trường du lịch, căn cứ nhu
cầu để khai thác đúng hướng sản phẩm du lịch. Căn cứ vào sự khác nhau của
nhu cầu mà chia thị trường du lịch thành các loại khác nhau như sau:

- Các khu vực lớn trong thị trường du lịch:
Căn cứ vào điều kiện về các mặt kinh tế, văn hóa, tiếp đón du lịch, vị trí
địa lý của các địa phương... Tổ chức Du lịch tế giới chia thị trường du lịch thế
giới thành sáu khu vực lớn: Thị trường du lịch Châu Âu, thị trường du lịch
Châu Mỹ, thị trường du lịch khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, thị trường du
lịch Nam-Á, thị trường du lịch Trung Đông và thị trường du lịch Châu Phi.
Đây là phương pháp phân chia thị trường du lịch quan trọng truyền thống,

20
thông qua sự thống kê hàng năm theo khẩu độ của Tổ chức Du lịch thế giới
mọi người có thể hiểu được cục diện cơ bản và động thái phát triển của toàn
bộ thị trường du lịch thế giới.
- Phân chia thị trường du lịch trong nước và thị trường du lịch quốc
tế theo lãnh thổ quốc gia:
Du lịch trong nước là sự lưu động của nhân dân nước đó trong lãnh thổ
nước mình, tạo thành một bộ phận của thị trường tiêu thụ và thị trường dịch vụ
trong nước, ảnh hưởng đến sự lưu thông và thu hồi tiền tệ trong nước, còn du
lịch quốc tế thì ảnh hưởng đến thu chi ngoại tệ của một quốc gia. Thị trường du
lịch trong nước và thị trường du lịch quốc tế chế ước và ảnh hưởng lẫn nhau,
trở thành thể thống nhất liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Phân chia theo nội dung và hình thức của sản phẩm du lịch:
Có các thị trường du lịch như thị trường du lịch tham quan phong cảnh,
thị trường du lịch nghỉ phép, thị trường du lịch hội nghị, thị trường du lịch dịch

khách mua đã trả tiền-nhận hàng, nếu có kéo dài cũng chỉ là để bảo hành. Tuy
nhiên, trên thị trường du lịch, quan hệ thị trường giữa người mua và người bán
bắt đầu từ khi khách du lịch quyết định mua hàng đến khi khách trở về nơi
thường trú của họ. Các sản phẩm du lịch nếu không được tiêu thụ, không bán
được sẽ không có giá trị và không thể lưu kho.
- Thị trường du lịch mang tính thời vụ rõ rệt, thể hiện ở chổ cung hoặc
cầu du lịch chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian nhất định của một năm và điều
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan và là một bài
toán rất khó tìm ra lời giải.
Toàn bộ những đặc điểm thị trường du lịch đã trình bày ở trên đòi hỏi
phải được nắm vững và lưu ý khi nghiên cứu và xây dựng chiến lược thị
trường của doanh nghiệp, mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Toàn bộ các mối quan hệ
và cơ chế kinh tế trên thị trường du lịch đều phải được liên hệ với vị trí, thời
gian, điều kiện và phạm vi của thực hiện hàng hóa. Điều quan trọng đối với du
lịch quốc tế là để bán được một sản phẩm du lịch cần phải xác định cơ chế
kinh tế, chính trị đối với một địa điểm cụ thể, một thời gian xác định và đối
tượng khách hàng rõ ràng. Thông qua đặc điểm của thị trường du lịch mang
tính thời vụ cao, trong việc xây dựng chiến lượng phát triển ngành du lịch cần
nghiên cứu, khảo sát, đánh giá một cách đầy đủ để đa dạng hóa sản phẩm du
lịch, nhằm thu hút đối tượng khách du lịch ngoài thời vụ chính ngày càng cao
hơn.

22
1.1.6. Tài nguyên du lịch:
1.1.6.1. Khái niệm về tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch là cơ sở phát triển của ngành du lịch. Các nhân tố có
thể kích thích động cơ du lịch của du khách được ngành du lịch tận dụng và từ
đó sinh ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội thì đều được gọi là tài nguyên du
lịch. Có thể nói đó là những nhân tố thiên nhiên, nhân văn và xã hội có sức thu
hút du khách thì gọi chung là tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm

1.1.6.3. Đặc điểm tài nguyên du lịch:
Thông qua quan sát và phân tích, đặc điểm của tài nguyên du lịch có thể
khái quát như sau:
- Tính đa dạng: Tài nguyên du lịch là một khái niệm có hàm ý rộng, nếu
cấu thành nhân tố môi trường hấp dẫn du khách thì đều có thể trở thành tài
nguyên du lịch. Về hình thức biểu hiện, tài nguyên du lịch cũng có đặc điểm đa
dạng, có thể là tự nhiên mà cũng có thể là nhân văn xã hội, có thể là lịch sử mà
cũng cò thể là đương đại, có thể là hữu hình và cũng có thể là vô hình.
- Tính tự nhiên: Tài nguyên du lịch tự nhiên là do thiên nhiên hình thành,
văn vật lịch sử là do lịch sử để lại, truyền thống phong tục dân tộc được từng
bước hình thành, thành tựu kiến trúc hiện đại được sáng tạo nên nhằm thích
ứng với sự phát triển của xã hội và kinh tế.
1.1.7. Vai trò ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế-xã hội :
Trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một số lượng lớn vật
tư hàng hóa để phục vụ du khách. Ngoài ra việc khách du lịch đem tiền kiếm
được từ nơi khác đến chi tiêu ở vùng du lịch, làm tăng nguồn thu của vùng và
của đất nước du lịch, góp phần làm cho kinh tế của vùng du lịch và của đất
nước phát triển.
Ngành du lịch phát triển còn là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất kinh
doanh của nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như: ngành nông
nghiệp, ngành sản xuất vật tư xây dựng, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng, ngành tiểu thủ công nghiệp…
Do nhu cầu của khách du lịch là rất đa dạng và phong phú cho nên ngành
du lịch tạo điều kiện cho các ngành đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường
tiêu thụ ngay tại chỗ giúp cho quá trình lưu thông được nhanh hơn, tăng vòng
quay của vốn, từ đó sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Ngành du lịch phát triển còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành giao
thông vận tải, bưu điện, ngân hàng, xây dựng…thông qua việc du khách trực
tiếp sử dụng các dịch vụ của các ngành này như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ
bưu điện. dịch vụ đổi tiền. Còn các cơ sở kinh doanh du lịch cũng tiêu thụ phần

Du lịch phát triển còn kích thích đầu tư. Do du lịch là ngành được tạo
nên bởi rất nhiều các doanh nghiệp nhỏ và nhiều loại hình dịch vụ khác nhau
nên sự đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng (đường sá, công viên…) và một
số kiến trúc thượng tầng ( nghệ thuật, lễ hội, văn hóa dân gian…) nhằm tạo
điều kiện cho du lịch phát triển sẽ kích thích sự đầu tư rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân, của doanh nghiệp nhỏ và cả đầu tư từ nước ngoài.

25
Sự phát triển của du lịch sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người
lao động. Trong thời đại hiện nay các ngành sản xuất truyền thống một mặt do
tốc độ tăng trưởng chậm lại, mặt khác do việc hiện đại hóa trong các ngành này
sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng lao động. Trong khi đó ngành du lịch phát triển
nhanh chóng và do đặc thù của ngành du lịch là ngành dịch vụ nên có hệ số sử
dụng lao động cao, do đó du lịch là ngành tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
Hàng năm vào mùa du lịch chính, các cơ sở kinh doanh du lịch thường tiếp
nhận một số lượng lớn lao động vào làm hợp đồng trong doanh nghiệp tạo
nguồn thu nhập cho họ. Ngoài ra, sự phát triển của du lịch còn kích thích các
ngành khác phát triển, từ đó còn tạo nhiều việc làm cho ngành, lĩnh vực khác
trong nền kinh tế.
Sự phát triển của du lịch còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của
các địa phương. Thông thường tài nguyên du lịch thường có nhiều ở những
vùng núi xa xôi, vùng ven biển hay các vùng hẻo lánh khác. Việc khai thác và
đưa các tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải có đầu tư về mọi mặt: giao
thông, bưu điện, kinh tế, văn hóa…Do vậy, phát triển du lịch làm thay đổi bộ
mặt kinh tế xã hội ở những vùng có khách du lịch đến. Mặt khác, do khách du
lịch đem tiền từ nơi khác đến các vùng du lịch đó tiêu dùng, sẽ tạo điều kiện
cho kinh tế ở những vùng này phát triển.
Sự phát triển của du lịch quốc tế còn có vai trò to lớn trong việc mở rộng
và củng cố mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ kinh tế bao gồm: việc
ký kết hợp đồng trao đổi khách giữa các nước, các tổ chức và các hãng du lịch.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status