Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƯƠNG THỊ MAI HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012. Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
6
1.1.

1.3.2.
Vị trí, vai trò của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền
27
1.4.
Những yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
28
1.4.1.
Yêu cầu về tính toàn diện của hệ thống pháp luật
28
1.4.2.
Yêu cầu về tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật
29
1.4.3.
Yêu cầu về tính ổn định (tính phù hợp) của hệ thống pháp luật
32
1.4.4.
Yêu cầu về ngôn ngữ và kỹ thuật lập pháp
33
1.4.5.
Yêu cầu về tính áp dụng của hệ thống pháp luật
34
1.4.6.
Một số yêu cầu khác
36

Chương 2: THỰC TIỄN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
38
2.1.
Hệ thống pháp luật Việt Nam

Ngành Luật Tố tụng dân sự
42
2.1.11
Ngành Luật kinh tế
42
2.2.
Hệ thống pháp luật quốc tế
42
2.3.
Thực trạng hệ thống pháp luật việt nam giai đoạn hiện nay
43
2.3.1.
Thực trạng về tính toàn diện của hệ thống pháp luật
43
2.3.2.
Thực trạng về tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật
48
2.3.2.1.
Văn bản pháp luật có nội dung mâu thuẫn, không thống nhất,
thiếu đồng bộ
49
2.3.2.
2.
Về hình thức của các văn bản pháp luật vẫn chưa thống nhất
đồng bộ
62
2.3.3.
Thực trạng về tính phù hợp (ổn định) của hệ thống pháp luật
63
2.3.4.

yêu cầu tính toàn diện, tính đồng bộ và thống nhất, tính phù
hợp của pháp luật
81

3.2.1.
2.
Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
xây dựng pháp luật
98
3.2.2.
Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác tổ
chức thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu tính áp dụng của hệ
thống pháp luật
103
3.2.2.
1.
Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước trong quá trình áp dụng pháp luật
103
3.2.2.
2.
Tiếp tục triển khai mạnh mẽ và thường xuyên công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tăng cường năng lực tiếp
cận của nhân dân đối với hệ thống pháp luật
106
3.2.2.
3.
Tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật; đẩy mạnh
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện và áp dụng pháp
luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật

2001 quy định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp [27].
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của đất
nước, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị và truyền
thống dân chủ của nước ta. Đồng thời, phải đảm bảo tuân thủ những nguyên
tắc, giá trị có tính phổ biến, được thừa nhận chung trong tất cả các nhà nước
pháp quyền; đảm bảo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được

2
xây dựng gắn với một xã hội công dân, một xã hội dân sự, thừa nhận vị trí tối
thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Do đó, vấn đề hoàn
thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề quan trọng, cơ bản, góp phần xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan nên hệ thống pháp luật của chúng ta
vẫn chỉ từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, hạn chế trong
công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong hoạt động
kiểm tra, giám sát, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; trong
công tác tổ chức và thực hiện pháp luật cũng như trình độ chuyên môn nghiệp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống pháp
luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thời gian qua để đề xuất một số giải pháp chủ yếu mang tính hệ thống,
đồng bộ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ:
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn có những nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền
nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng,

4
hệ thống pháp luật và yêu cầu của hệ thống pháp luật trong nhà nước
pháp quyền.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật của nước
ta hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của các thực trạng đó. Xác định rõ xu hướng
xây dựng pháp luật trong thời gian tới nhằm hoàn thiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu đề hoàn thiện hệ thống
pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở
lý luận về nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp
quyền, những yêu cầu của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền, Từ
đó, xác định rõ những yêu cầu của hệ thống pháp luật trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, thực trạng hệ thống

Chương 3: Một số giải pháp cơ bản để hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay.

6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1.1. Khái niệm
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã hình thành từ rất sớm, nhưng
nhà nước pháp quyền với tư cách là học thuyết chính trị và triết học thì chỉ
xuất hiện ở Tây âu vào thế kỷ XVII - XVIII. Vậy nhà nước pháp quyền là gì?
Có thể khái niệm về nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp
quyền không phải là một kiểu nhà nước, đó chỉ là những giá trị phổ biến, là
biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, một cách thức tổ chức nhà
nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Đó là một tổ chức công quyền được
thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc
cho nhân dân, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội công dân, thông
qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân chủ như đề cao chủ quyền nhân dân;
có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước khoa học và hiệu quả; dân
chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội…
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền
Từ khái niệm về nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhà nước pháp
quyền có những đặc điểm cơ bản sau:
- Nhà nước pháp quyền luôn đề cao chủ quyền của nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền đề cao hiến pháp và tính tối cao của hiến

sự xâm hại đối với các quyền tự do đó, bảo đảm không ngừng mở rộng, làm
phong phú thêm các quyền, tự do của công dân. Phải bảo đảm mọi hoạt động,

8
mọi cố gắng của nhà nước, của xã hội đều nhằm phục vụ cho hạnh phúc của con
người. Nhà nước có cơ chế bảo vệ các quyền của con người khi nó bị xâm hại.
- Trong nhà nước pháp quyền, cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước cần có sự phân công một cách rành mạch giữa lập pháp, hành pháp
và tư pháp; có cơ chế kiểm soát về mặt nhà nước và xã hội trong việc thực
hiện các quyền lực đó.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng phải có sự phân công phối
hợp phù hợp giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Cơ chế phân công, phối hợp phải rõ ràng và có hiệu
quả, phải bảo đảm sự phân biệt rõ ràng và sự phối hợp có hiệu quả giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có như vậy, mới có thể thực hiện được
sự kiểm tra, giám sát các hoạt động lao động quyền lực, có thể hạn chế được
sự lạm dụng quyền lực, bảo vệ được lợi ích hợp pháp của con người khỏi bị
xâm hại từ phía quyền lực nhà nước.
- Giải quyết hợp lý mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân.
Trong quan hệ với công dân, nhà nước là một bên nhưng lại là chủ thể có
quyền ban hành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, là chủ thể
thực hiện việc xét xử, phán quyết mỗi khi có tranh chấp, vi phạm. Do vậy,
nhà nước phải bị ràng buộc bởi chính pháp luật đã được nhà nước ban hành từ
trước. Công dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, trao quyền cho nhà nước,
nhưng hành vi của công dân lại là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước. Do
vậy, nhà nước và công dân phải có mối quan hệ qua lại và tôn trọng lẫn nhau:
công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với nhà nước; nhà
nước phải bảo đảm các quyền, tự do cá nhân, lợi ích, danh dự của công dân,
tạo điều kiện để chúng được thực hiện và không bị xâm hại.
Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ này diễn ra theo hướng nhà


10
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp [9].
Trên cơ sở đó, Điều 2 - Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi năm
2001 đã quy định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
tri thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp [27].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng trong đó có đặc trưng: "Có Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo" [13]. Một trong những phương hướng để thực hiện mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là "xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [13]. Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) đã khẳng định rõ
hơn một bước tất yếu phải hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của chúng ta.
Như vậy, đối với chúng ta nói xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là nói tới một phương thức tổ chức nền chính trị xã hội chủ nghĩa


xã hội chủ nghĩa trong những năm gần đây ở nước ta đã góp phần xác định rõ
hơn đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2.3. Những đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Đặc trưng thứ nhất: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền
làm chủ của nhân dân.
Bản chất dân chủ của chế độ chính trị ở nước ta đòi hỏi mọi quyết
định và hành động của các thiết chế quyền lực đều phải bắt nguồn từ ý chí
đích thực của nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngay
từ khi thành lập đã thể hiện tính chất nhân dân và cách mạng sâu sắc, bởi vì
nó chính là thành quả trực tiếp của Cách mạng tháng Tám do toàn thể nhân
dân Việt Nam thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà nước ta là đại diện của nhân dân, do nhân dân
bầu lên, và thực hiện nhiệm vụ phục vụ lợi ích của nhân dân và dân tộc. Tính
pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta thể hiện ở việc khẳng
định nhà nước là của nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện, nhân dân không chỉ tạo
lập nên Nhà nước, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện của mình thực
thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt
động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh đến quá trình hoạch định chính
sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như các hoạt động thuộc phạm vi
nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Điều 53 - Hiến pháp Việt Nam
khẳng định: "Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội…"
Quyền làm chủ của nhân dân còn được thể hiện ở chỗ các thiết chế
chính trị và quyền lực của Nhà nước đều đặt dưới sự giám sát của nhân dân.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa XI) ghi rõ:"Đảng Cộng sản Việt

13
Nam là Đảng cầm quyền gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của

và của các tổ chức chính trị - xã hội.
Đặc trưng thứ ba: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật
trong đời sống xã hội
Tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội được thể hiện: Tất
cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp đã ghi rõ
những yêu cầu đó:
Điều 4:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam (…) là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật [25].
Điều 12:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật…Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị
xử lý theo pháp luật [25].
Điều 18: "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch
và pháp luật" [25]. Điều 26: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc
dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách" [25].
Điều 57: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật" [25].

15
Tư duy lý luận của Đảng ta về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản
lý nhà nước và xã hội có sự phát triển ngày càng hoàn thiện theo hướng bảo

đường lối của Đảng (đường lối của Đảng là cái hồn của pháp luật), chấp hành
pháp luật chính là thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật cũng là
quy tắc xử sự chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Đảng Cộng sản
Việt Nam là tổ chức duy nhất có vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội ta, nhưng
cấp ủy đảng các cấp và đảng viên đều phải chấp hành pháp luật (Điều 4 Hiến
pháp năm 1992 khẳng định: "Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" [25]).
Hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa và đổi mới hệ thống chính trị. Pháp luật đã bước đầu trở thành công
cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nguyên tắc nhà nước pháp
quyền từng bước được đề cao và phát huy hiệu quả trên thực tế.
Đặc trưng thứ tư: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền tự do của công dân, giữ vững
mối liên hệ dân chủ giữa nhà nước và công dân, giữa nhà nước và xã hội
Sau khi khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta, thì vấn đề được
Đảng ta quan tâm là hình thức dân chủ để bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Trong điều kiện hiện nay, hình thức thực hiện dân chủ là rất quan trọng, Đảng
ta xác định dân chủ dựa trên nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề
thuộc bản chất của Nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hóa bằng pháp luật…Dân chủ đi đôi
với kỷ cương, kỷ luật, phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện
tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các

17
đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc
xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở.
Trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có tình trạng vừa thiếu dân

Đặc trưng thứ năm: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện
quyền lực nhà nước
Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực về sự phân công phối hợp
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một quan điểm chính trị,
pháp lý khái quát. Trong quá trình xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định nó là một tất yếu.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991, Đảng ta đã khẳng định sự tồn tại của ba quyền và sự phân công,
phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ
tám (khóa VII - năm 1995), quan niệm của Đảng về sự tồn tại của 3 quyền đã
có sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2001
(sửa đổi, bổ sung Cương lĩnh năm 1991) khẳng định: "Quyền lực nhà nước là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" [13, tr. 85].
Ở Việt Nam quan điểm như thế nào về tính thống nhất của quyền lực
nhà nước, sự phân công phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp cần được xác định trong mối quan hệ quyền lực nào: thống nhất ở chỗ
nào và độc lập, phân công, phối hợp như thế nào.

19
Ở nước ta xuất phát từ bản chất của Quốc hội với tính cách là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Quốc
hội cần nắm giữ những quyền hạn mà việc thực thi chúng có ý nghĩa quyết
định đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước.
Quyền quyết định các vấn đề quan trọng, trong đó cần chú trọng đến

Cải cách nền hành chính quốc gia là một trong những khâu đột phá
của cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Do vậy, sự chuyển đổi tính chất,
nội dung và phương pháp thực thi của nền hành chính quốc gia phải được bắt
đầu từ cải cách Chính phủ. Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, lãnh đạo thông suốt toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước, Chính phủ
có nhiệm vụ xây dựng và kiện toàn bộ mặt hành chính có hiệu lực từ Trung
ương đến địa phương, Chính phủ có vai trò quan trọng đối với công cuộc cải
cách hành chính.
Tăng cường quản lý tập trung thống nhất của Chính phủ trên các vấn
đề quản lý vĩ mô, không can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thực hiện đúng và tốt hơn chức năng quản lý nhà nước đích thực
trong kinh tế thị trường; phát huy mạnh mẽ tính năng động tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm tính thống nhất, tập trung
của hệ thống hành chính, phát huy tính năng động, sáng tạo của địa phương;
Chính phủ và các cơ quan hành chính các cấp tập trung làm tốt công tác quản
lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực
Các cơ quan tư pháp: Tòa án nhân dân ở nước ta được tổ chức theo
nguyên tắc kết hợp giữa thẩm quyền xét xử với tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. Ở mỗi đơn vị cấp huyện có một tòa án; ở
cấp tỉnh có có tòa án cấp tỉnh và ở Trung ương có Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên tắc hai cấp xét xử thực chất đã và đang tồn tại trong hoạt động
xét xử ở Tòa án nước ta: đó là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm.
Mặc dù nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status