Nghiên cứu sự đa dạng cây gỗ và điều tra một số mô hình trồng rừng tại khu Bảo tồn thiên nhiên Chạm Chu, tỉnh Tuyên Quang làm cơ sở cho công tác bảo tồn - Pdf 26


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Hà Thị Hoa NGHIÊN CỨU SỰ ĐA DẠNG CÂY GỖ VÀ ĐIỀU TRA
MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN CHẠM CHU, TỈNH TUYÊN QUANG
LÀM CƠ SỞ CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trung Thành Hà Nội - 2013
iii

LỜI CẢM ƠN

Nhân dịp hoàn thành luận văn thạc sĩ, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Nguyễn Trung Thành, người thầy đã hướng dẫn tôi, giúp đỡ tôi hoàn
thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn Thực vật
học, khoa Sinh học, trường Đại học khoa học tự nhiên, đại học Quốc gia Hà Nội đã
nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học
tại trường.
Tôi xin cảm ơn cảm ơn các anh trong đoàn thu mẫu đã giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi thu thập tài liệu và nghiên cứu trong suốt thời gian làm
luận văn.
Cuối cùng tôi xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ
để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Mặc dù rất cố gắng nhưng vì trình độ chuyên môn và thời gian có hạn nên
luận văn của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp của các thầy cô và bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
9

1.4. Nghiên cứu về các yếu tố địa lý
11

1.5. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật
15
Chương 2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
17

2.1. Điều kiện tự nhiên
17 2.1.1. Vị trí địa lý
17 2.1.2. Địa hình
18 2.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng
18 2.1.4. Khí hậu
18
3.3. Nội dung nghiên cứu
22
v 3.4. Địa điểm
22

3.5. Phương pháp nghiên cứu
23 3.5.1. Phương pháp kế thừa
23 3.5.2. Phương pháp chuyên gia
23 3.5.3. Phương pháp nghiên cứu đa dạng thực vật
23
3.5.3.1. Thu mẫu và xử lý
23
3.5.3.4.3. Đánh giá tính đa dạng về dạng sống
28

3.5.3.4.4. Đánh giá về giá trị tài nguyên và mức độ đe dọa
28
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
29

4.1. Đa dạng thành phần loài cây gỗ trong khu vực nghiên cứu
29 4.1.1. Đa dạng ở mức độ ngành
29 4.1.2. Tỷ trọng hai lớp trong ngành Hạt kín
30 4.1.3. Đánh giá đa dạng các taxon dưới ngành
32


4.4.2.1. Các loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam
43
4.4.2.2. Các loài nằm trong danh sách của Nghị định 32-
2006/CP

44

4.5. Các mô hình trồng cây ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Chạm
Chu

45 4.5.1. Mô hình trồng Cam
45 4.5.2. Mô hình trồng Xoan
46 4.5.3. Mô hình trồng Luồng
47 4.5.4. Mô hình trồng Bương

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và môi trường đang có kế hoạch thành lập 41 khu
bảo tồn mới với tổng diện tích 775.000ha vào năm 2020. Các khu bảo tồn
thiên nhiên là những tài sản thiên nhiên quý báu không chỉ có giá trị trước
mắt cho thế hệ hôm nay mà còn là di sản của nhân loại mãi mãi về sau.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi nằm ở vùng Đông Bắc nước ta,
cách Hà Nội khoảng 160 km về Phía Bắc, Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà
Giang và Cao Bằng, Phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc, Phía Đông
giáp tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên, Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái. Tổng diện
tích rừng của Tuyên Quang là 386.382 ha. Trong đó diện tích rừng tự nhiên là
284.673 ha, diện tích rừng trồng là 101.709 ha. Tháng 9 năm 2001, tỉnh
Tuyên Quang đã ra Quyết định công nhận khu bảo tồn thiên nhiên Chạm Chu
với diện tích 58.187ha. Hiện nay, tỉnh Tuyên Quang đang lập dự án trình
Chính phủ phê duyệt và công nhận khu bảo tồn thiên nhiên Chạm Chu là
vườn quốc gia.
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá, là một trong những nguồn lực quan
trọng cho quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế của tỉnh Tuyên Quang.
2

Rừng là một bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, là nhu cầu, là đối
tượng hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của nhân dân các dân tộc
tỉnh Tuyên Quang. Tuy nhiên trong những năm vừa qua việc khai thác quá
mức nguồn tài nguyên rừng đã làm cho diện tích rừng tự nhiên nơi đây giảm
đi đáng kể.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của các nhà khoa học. Khu BTTN
Chạm Chu không những đa dạng về các kiểu hệ sinh thái rừng mà hệ thực vật
ở đây còn phong phú và đa dạng về thành phần loài; Về thành phần loài thực
vật có mạch ở đây lên đến 1500 - 2000 loài, trong đó 10 loài đặc hữu, quý
hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam, nhiều loài thực vật có giá trị kinh tế cao
như Hoàng Đàn, Pơ Mu, Thông tre, Nghiến và Trai Lý, Chò chỉ, Gù hương
hệ động vật đã ghi nhận được 45 loài thú, 127 loài Chim, 38 loài Bò sát và 15

Vào năm 1989, quỹ quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) đã đưa ra
định nghĩa như sau: “Đa dạng sinh học là sự phồn vinh của sự sống trên trái
đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa
đựng trong các loài và là hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi
trường”
Trong chương trình hành động đa dạng Sinh học Việt Nam khái niệm
đa dạng sinh học được trình bày như sau: “Đa dạng sinh học là tập hợp tất cả
các nguồn sinh vật sống trên hành tinh, gồm tổng số loài động vật và thực
vật, tính đa dạng và sự phong phú trong từng loài, tính đa dạng hệ sinh thái
của cộng đồng sinh thái khác nhau, hoặc tập hợp các loài sống ở các vùng
khác nhau trên thế giới và các hoàn cảnh khác nhau”.
Năm 1992 tại hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về môi trường và phát
triển của liên hợp quốc ở Rio de Janeiro đã đưa ra khái niệm về đa dạng sinh
học như sau: “Đa dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi
nguồn, bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái nước
khác, sự đa dạng thể hiện trong từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”
4

Năm 1994 hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên IUCN đã đưa ra định
nghĩa đa dạng sinh học như sau: “Đa dạng sinh học là thuật ngữ chỉ sự phong
phú của sự sống trên trái đất của hàng triệu loài thực vật, động vật, vi sinh vật
cùng nguồn gen của chúng và các hệ sinh thái mà chúng là thành viên. Từ đó,
đa dạng sinh học được định nghĩa là sự đa dạng của các sinh vật từ tất cả các
nguồn, trong đó bao gồm các hệ sinh thái trên cạn, dưới biển, các thủy vực và
các phức hệ sinh thái mà chúng cấu thành. Đa dạng sinh học bao gồm sự đa
dạng của loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”.
Tóm lại, đa dạng sinh học là khoa học nghiên cứu về tính đa dạng của
vật sống trong tự nhiên, từ các sinh vật phân cắt đến các động vật và thực vật
(trên cạn cũng như dưới nước) và cả loài người chúng ta, từ mức độ phân tử
đến các cơ thể, các loài và các quần xã mà chúng ta sống. Đa dạng sinh học

những công trình có giá trị xuất hiện vào thế kỉ 19-20 như: Thực vật chí
Hongkong (1861), thực vật chí Australia (1866), thực vật chí rừng Tây Bắc
và trung tâm Ấn Độ (1874). Theo hướng nghiên cứu thống kê và mô tả thực
vật phải kể đến các công trình: Thực vật chí Đông Dương của Leconmte và
cộng sự (1907-1952), thực vật chí Malaysia (1948-1972), thực vật chí Vân
Nam (1979-1997).
Nghiên cứu đa dạng thực vật trên thế giới được bắt đầu bằng việc phân
loại thực vật. Mở đầu là Theophraste, học trò của Aristotle. Ông đã đề xướng
phương pháp phân loại và phân biệt một số tính chất cơ bản trong cấu tạo cơ
thể thực vật. Trong tác phẩm “Lịch sử tự nhiên của thực vật” và “Cơ sở thực
vật” ông đã mô tả gần 500 loài cây và phân ra thành cây to, cây nhỡ, cây nhỏ,
cây thân gỗ, cây sống trên cạn, cây sống dưới nước…
6

Tiếp sau đó là Plinus, nhà bác học người La mã viết bộ “Lịch sử tự
nhiên” đã mô tả gần 1000 loài cây và cũng phân chia như Theophraste nhưng
chú ý đến cây ăn quả và cây làm thuốc.
Trong suốt thời gian dài thời trung cổ, do sự thống trị của Giáo hội và
nhà thờ, khoa học bị kìm hãm, nghiên cứu đa dạng thực vật cũng không phát
triển được. Tới thời kì phục hưng, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản, nghiên cứu về đa dạng thực vật cũng được phát triển. Số cây cối được
biết đến tăng lên rất nhiều, đòi hỏi phải xây dựng những bảng phân loại để
tiện sử dụng. Trong thời kì này có ba sự kiện xảy ra đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của việc nghiên cứu thực vật. Đó là sự phát sinh tập bách
thảo (thế kỉ XVI), việc xây dựng vườn bách thảo (thế kỉ XV - XVI) và việc
biên soạn các cuốn “Bách khoa toàn thư” về thực vật. Do tích lũy được nhiều
tài liệu thực tế từ thế kỉ XVI đến gần cuối thế kỉ XVIII, việc xây dựng các
bảng phân loại đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm của nghiên cứu thực vật.
Thời kì này đã xuất hiện nhiều bảng phân loại.
Bảng phân loại của Caesalpine (1519-1603). Caesalpine là một trong

chính của thực vật nên đã dần thiết lập được các nhóm tự nhiên của thực vật.
Có thể kể đến một số hệ thống tự nhiên như: Các hệ thống phân loại của
Bernard Jussieu (1699-1777) và cháu ông là A.L.de Jussieu (1749-1836) đã
sắp xếp thực vật theo trình tự từ thấp đến cao, xếp chúng vào các họ, giữa các
họ đều có những dạng chuyển tiếp, phản ánh được mối quan hệ giữa các
nhóm thực vật với nhau. A.L. de Jussieu đã chia thực vật thành thực vật
không lá mầm (gồm Tảo, Nấm, Rêu, Dương xỉ) và thực vật có lá mầm (Tùng
bách, thực vật Một lá mầm và thực vật Hai lá mầm).
Người có công lớn trong giai đoạn này là O.P. de Candole (1778-
1841), đã đưa số họ thực vật lên 161 họ. Brown (1773-1858) là người đầu
8

tiên nghiên cứu tỉ mỉ về Tùng, Bách và Tuế, do đó đã tách rời hạt Trần ra
khỏi hạt Kín. Vào giữa thế kỉ XIX là một giai đoạn bắt đầu của ý tưởng tiến
hóa. Khi tác phẩm “Nguồn gốc các loài” của Darwin ra đời năm 1858 thì
khoa học về sinh vật đã có những thay đổi lớn. Bằng những lí luận chặt chẽ
và những bằng chứng cụ thể, học thuyết tiến hóa của Darwin đã phủ nhận
tính chất bất biến của loài và xem loài là kết quả của sự phát triển tiến hóa tự
nhiên. Học thuyết này đã khiến cho người ta nhận ra rằng trong khi phân loại
thực vật, cần phải tập hợp những dạng thống nhất với nhau về nguồn gốc chứ
không chỉ đơn thuần giống nhau đại bộ phận tính chất. Sự sắp xếp các nhóm
thực vật không chỉ phản ánh mối tương quan và nối tiếp giữa chúng mà còn
phải phản ánh con đường phát triển tiến hóa của giới thực vật.
Ở Nga, từ năm 1928 đến 1932 được xem là giai đoạn mở đầu cho thời
kỳ nghiên cứu hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I cho rằng: “chỉ cần điều tra
trên một diện tích đủ lớn để có thể bao trùm được sự phong phú của nơi sống
nhưng không có sự phân hóa về mặt địa lý”. Tác giả đã đưa ra nhận định một
hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường khoảng 1500 đến 2000 loài.
Brummitt (1992), chuyên gia của phòng bảo tàng thực vật Hoàng gia
Anh trong cuốn “Vascular plant families and genera” đã thống kê tiêu bản

các công trình sau: “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của tác giả Đỗ
Tất Lợi (1969, 1977); bộ “ Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam” do Lê Khả Kế
chủ biên (1969, 1975); thảm thực vật rừng Việt Nam (1978) của Thái Văn
Trừng, bộ “ Cây gỗ rừng Việt Nam” (1971-1988) gồm 7 tập và cuốn “Những
loài thực vật rừng quý hiếm cần bảo vệ ở Việt Nam” do Viện điều tra qui
hoạch rừng biên soạn.
Năm 1984, Nguyễn Tiến Bân, Trần Bình Đại, Phan kế Lộc cùng tập
thể các tác giả đã xuất bản tập “Danh lục thực vật Tây Nguyên” công bố 3754
10

loài thực vật bậc cao có mạch. Trong công trình “Thực vật ở đảo Phú Quốc ”
(1985), tác giả Phạm Hoàng Hộ đã thống kê được 929 loài thực vật bậc cao
có mạch, trong đó có 112 loài cây trồng, 817 loài cây có phân bố tự nhiên và
ghi nhận thêm 19 loài mới cho Việt Nam, không kể Nấm.
Trong số đó, đáng chú ý nhất là bộ “Cây cỏ Việt Nam” lần đầu tiên
xuất bản tại Canada (1991- 1993) đã thống kê được 10419 loài thực vật bậc
cao có mạch ở Việt Nam. Trong hai năm 1999- 2000, tác giả đã chỉnh lí, bổ
sung và tái bản tại Việt Nam. Bộ sách mới đã thống kê, mô tả 11611 loài
thuộc 3179 chi, 295 họ và 6 ngành.
Năm 1993, Trần Đình Lý và tập thể cũng công bố cuốn “1900 loài
cây có ích của Việt Nam”. Năm 1996, “Tên cây gỗ rừng Việt Nam” là kết
quả đóng góp của nhiều tác giả đã được chỉnh lý và dịch sang tiếng Anh.
Cùng năm này, Võ Văn Chi công bố cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” và
gần đây là cuốn “Từ điển thực vật thông dụng” (2003). Nguyễn Tiến Bân
công bố cuốn “Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật ở Việt Nam”
(1997). Võ Văn Chi và Trần Hợp (1999) công bố cuốn “Cây cỏ có ích ở
Việt Nam”. Đỗ Tất Lợi giới thiệu “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”
và các tài liệu do Viện dược liệu biên soạn như “Cây thuốc Việt Nam”
(1990); “Tài nguyên cây thuốc Việt Nam”(1993); năm 1999, trong cuốn
“Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam”, tác giả Lê Trần Chấn

sự đa dạng của hệ thực vật.
Gagnepain là người đầu tiên phân tích các yếu tố địa lý của hệ thực vật
Việt Nam với hai tác phẩm “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương”
(1926) và “Giới thiệu về hệ thực vật Đông Dương” (1944). Ông đã chia hệ
thực vật Đông Dương thành 5 yếu tố.
12

Yếu tố Trung Quốc
33,8%
Yếu tố nhập nội và phân bố rộng
20,8%
Yếu tố Xích Kim - Himalaya
18,5%
Yếu tố Malaysia và nhiệt đới khác
15%
Yếu tố đặc hữu bán đảo Đông Dương
11,9%

Sau đó vào năm 1965, khi nghiên cứu về hệ thực vật Bắc Việt Nam,
Pócs Tamás đã phân chia thành các nhóm yếu tố như sau:
- Nhân tố bản địa đặc hữu 39,9%
Của Việt Nam 32,55%
Của Đông Dương 7,35%
- Nhân tố di cư từ các vùng nhiệt đới: 55,27%
Từ Trung Quốc 12,89%
Từ Ấn Độ và Himalaya 9,33%
Từ Malaysia - Indonesia 25,69%
Từ các vùng nhiệt đới khác 7,36%
- Nhân tố khác 4,83%
Ôn đới 3,27%

2. Liên nhiệt đới
2.1. Nhiệt đới châu Á, châu Úc và châu Mỹ
2.2. Nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ
2.3. Nhiệt đới châu Á và Mỹ
14

3. Cổ nhiệt đới
3.1. Nhiệt đới châu Á và châu Úc
3.2. Nhiệt đới châu Á và châu Phi
4. Nhiệt đới châu Á (Inđô - Malêzi)
4.1. Đông Dương - Malêzi
4.2. Đông Dương - Ấn Độ hay Lục địa châu Á nhiệt đới
4.3. Đông Dương - Himalaya hay lục địa Đông Nam Á (trừ
Malêzi, Ấn Độ)
4.4. Đông Dương - Nam Trung Hoa
4.5. Đông Dương
5. Ôn đới Bắc
5.1. Đông Á - Bắc Mỹ
5.2. Ôn đới cổ thế giới
5.3. Vùng ôn đới Địa Trung Hải, châu Âu, châu Á
5.4. Đông Á
6. Đặc hữu Việt Nam
6.1. Cận đặc hữu
7. Yếu tố cây trồng
8. Yếu tố không xác định: bao gồm các taxon không có đủ thông tin để
xếp vào một trong các yếu tố ở trên.

15

1.5. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật

bao phủ chống lạnh hay chống khô.
3. Cây chồi nửa ẩn - Hemicryptophytes (Hm): gồm những cây có chồi
trong mùa khó khăn nằm sát mặt đất (ngang mặt) được lá khô che phủ bảo vệ,
thường các loài này có thân nửa nằm dưới đất, nửa trên mặt đất.
4. Cây chồi ẩn - Cryptophytes (Cr): gồm những cây có chồi trong mùa
khó khăn nằm dưới đất.
5. Cây một năm - Therophytes (T): gồm những cây vào thời kì khó
khăn, toàn bộ cây chết đi, chỉ còn duy trì nòi giống dưới dạng hạt. Đó là toàn
bộ cây có đời sống ngắn hơn một năm, sống ở bất kể môi trường nào.

17

Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu Bảo tồn thiên nhiên Chạm Chu nằm trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang, cách Hà Nội khoảng 240km về phía Bắc. Có tọa độ địa lý 22
0
14’16’’
đến 22
0
21’30’’ vĩ độ Bắc; 104
0
53’27’’ đến 105
0
14’16’’ kinh độ Đông. Khu
bảo tồn chạy dài từ ranh giới Hà Giang - Tuyên Quang đến xã Minh Hương
(Hàm Yên) và Hòa Phú (Chiêm Hóa). Toàn bộ khu bảo tồn nằm giữa hai con
sông lớn của tỉnh Tuyên Quang là sông Lô và sông Gâm nên Khu BTTN
Chạm Chu đồng thời là khởi nguồn của hai hệ thống sông thuộc hai huyện

đất màu mỡ đã được sử dụng trồng hoa màu (phần tiếp giáp sông Lô và vùng
dân cư phía Đông khu bảo tồn).
- Đất Feralit màu vàng đỏ trên sườn đồi và chân núi, tầng đất dày có
mùn.
- Đất Feralit màu vàng nhạt trên núi, tầng đất có nhiều mùn.
- Đất Feralit màu sẫm chân núi đá vôi (chủ yếu thuộc vùng núi Cánh
Tiên).
- Đất Feralit màu đỏ vàng trên núi cao, tầng đất mỏng có nhiều mùn.
2.1.4. Khí hậu
Vùng Chạm Chu có những nét tương đồng với chế độ khí hậu vùng
Đông Bắc.
19

Nhiệt độ trung bình hàng năm 22,9
0
C; Nhiệt độ trung bình tháng lạnh
nhất xuống đến 15,5
0
c vào tháng 1, tháng cao nhất lên đến 28,2
0
C rơi vào
tháng 7. Biên độ dao động nhiệt độ giữa tháng lạnh và nóng nhất lên đến
7,3
0
C.
Tổng lượng mưa trung bình năm đạt 1661mm đặc biệt 4 tháng có
lượng mưa trung bình trên 230mm là các tháng 6,7,8,9 chiếm đến 65,24%
tổng lượng mưa năm. Điều này gây nên hiện tượng lũ lụt, xói mòn đất và các
thiệt hại về người, môi trường và kinh tế.
Thời kỳ khô hạn là thời kỳ kéo dài từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status