Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE. - Pdf 26

+A
-A
-A
+A
-A
+A
+A
+A
(+A) Dòng tiền vào
(-A) Dòng tiền ra
Dòng tiền ra
-
Dòng tiền vàoDòng tiền thuần của dự án đầu tư
=
Trong đó:
“ Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại dưới hình thức: Trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận thuần hàng năm và các khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết thúc.
“ Dòng tiền ra” là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm các khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp.
t
n
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Phòng nghiệp vụ I
Phòng nghiệp vụ II
Phòng nghiệp vụ III
Phòng nghiệp vụ IV
Phòng tổng hợp
TX Sơn La
Tp. Đà Nẵng

quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá
trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả.
Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ
nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1
làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn
nữa quá trình đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi là một thành viên của tổ chức
Thương mại thế giới WTO.
Ngay từ khi mới tham gia vào hoạt động định giá, công ty Cổ phần
Kiểm toán và Định giá Việt Nam, nay là công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm
toán và Định giá Việt Nam đã luôn chú trọng đến việc mở rộng và hoàn thiện
chất lượng công tác định giá của mình nhằm bắt nhịp và đáp ứng tốt nhất nhu
cầu định giá trong bối cảnh hội nhập. Do đó, công ty đã trở thành một trong
những tổ chức định giá hàng đầu và có uy tín nhất tại Việt Nam hiện nay. Vì
vậy, sau khi thực tập tại đây, với mục đích tìm hiểu thực tế về hoạt động định
giá doanh nghiệp tại công ty và những tồn tại của nó nhằm tìm ra giải pháp
khắc phục, thúc đẩy hơn nữa hoạt động này, tôi đã chọn để tài “Hoàn thiện
hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán
và Định giá Việt Nam – VAE” để làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp
của mình.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu về thực trạng hoạt động định giá tại VAE , trước hết
tôi muốn đi sâu nghiên cứu những lý luận chung nhất về định giá, tiếp đến là
phân tích thực trạng công tác định giá hiện nay và thứ ba là trong giới hạn
hiểu biết của mình tôi đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động định giá tại công ty Kiểm

mô quá nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa
nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục
tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (theo luật doanh nghiệp 2005).
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần được coi là một loại hàng
hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đã thu hút
được sự quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá trị doanh nghiệp
cần được xác định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của các bên
tham gia trong các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp. Trước khi xem
xét đến giá trị doanh nghiệp, chúng ta cũng cần làm rõ những đặc điểm của
doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong mối quan hệ chung
với các phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định
4
4
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
bởi các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ
với các yếu tố bên ngoài như: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức tài chính,
pháp luật…Sự hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của nó
với môi trường hoạt động. Do vậy khi nhìn nhận doanh nghiệp cần thấy được
vị trí của nó trong nền kinh tế và quan trọng hơn là phải đánh giá được nó về
mặt tổ chức cũng như sự thích ứng của nó với môi trường.
b) Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoặt động chứ không phải là các
tài sản rời rạc được tập hợp vào với nhau

doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà
đầu tư trong tương lai.
1.2 Định giá doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp
Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu
do người mua và người bán xác định. Giá trị là mức giá dự tính sẽ phải trả đối
với hàng hoá hoặc dịch vụ tại một thời điểm nhất định.
Giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khỏan thu
nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đẩu tư trong suốt quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để xác định được giá trị doanh nghiệp, có thể tiếp cận theo hai cách:
- Tiếp cận trực tiếp: Trực tiếp đánh giá các tài sản của doanh nghiệp, bao
gồm cả tài sản hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị các yếu tố
về tổ chức, danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp.
6
6
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Tiếp cận gián tiếp: Đánh giá doanh nghiệp thông qua việc lượng hóa
các khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà
đầu tư trong suốt thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp.
Với hai cách tiếp cận như vậy, trên thế giới hiện nay có nhiều phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau (sẽ được đề cập cụ thể ở phần
sau). Tuy nhiên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có sự chênh lệch
lớn thậm chí ngay cả khi sử dụng cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ
thuộc rất lớn vào độ chính xác của các tham số tính toán. Do vậy mỗi phương
pháp đưa ra đều có những thích ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi
doanh nghiệp và tẩm nhìn của nhà đầu tư. Không thể có một phương pháp
chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp nên việc lựa chọn phương pháp nào đó
để áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp là điều khó thực hiện và sẽ nảy
sinh nhiều mâu thuẫn. Định giá là một môn khoa học có tính nghệ thuật ước

quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai
trên thị trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai
và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường
quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số
lượng hạn chế người mua, người bán.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán
và bên mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân
nhắc đầy đủ các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị
trường trước khi đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn
toàn tự nguyện, không nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức.
8
8
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
b) Giá trị phi thị trường
Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc
đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể
mua bán tài sản trên thị trường.
Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát
trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích
mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định.
Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng:
- Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất
đai) không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể
coi như giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá
tài sản cần xác định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của
tài sản.
- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền
hợp lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với
thời gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại

một doanh nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp,
không tính đến giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số
tiền mà tài sản đó mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế
toán, giá trị đang sử dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có
thể mang lại trong tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh
lý tài sản.
Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn
bộ của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một
doanh nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh
10
10
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
nghiệp đó không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị
thị trường.
1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
a) Môi trường kinh doanh tổng quát:
- Môi trường kinh tế: Bối cảnh kinh tế được nhìn nhận thông qua hàng
loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả,
tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư,…Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất
như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp
lại là sự tác động trực tiếp, mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ
cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Ví dụ: Chỉ số giá chứng
khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi
xuất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở
rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là
biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc.
- Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát
triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội

nghiệp cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh
nghiệp trong quan hệ với khách hàng và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị
phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua
các chu kỳ kinh doanh.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường
phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật
12
12
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
liệu, các dịch vụ điện, nước,… Tính ổn định đảm bảo cho sản xuất và tiêu
thụ được thực hiện theo đúng chỉ tiêu đã đề ra.
Để đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho sản xuất kinh
doanh có thể ổn định phải xem xét đến: Sự phong phú của các nguồn cung
cấp, số lượng, chủng loại các nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả
năng đáp ứng lâu dài, tính kịp thời, chất lượng và giá cả.
- Các hãng cạnh tranh: Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được
coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh
giá năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất
lượng sản phẩm và dịch vụ hậu thương mại còn phải xác định được số
lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, năng lực thự sự và thế mạnh của
họ là gì.
- Các cơ quan Nhà nước: Sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải
được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: cơ
quan thuế, cơ quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…Các tổ chức này có
bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp
không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi
trường,…
Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những
doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội, như nộp thuế
đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động,… Đó cũng là biểu hiện của

thương mại… Tuy nhiên, với vị trí đó cũng có thể kéo theo sự gia tăng một
số khoản chi phí như thuê văn phòng giao dịch thuê lao động…
Vì vậy vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan
trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp.
14
14
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Uy tín kinh doanh: Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng
về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu
tố khác nhau từ bên trong doanh nghiệp, như: Do chất lượng sản phẩm cao,
do trình độ quản lý kinh doanh giỏi, …
Khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt
của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực, chúng có giá và người
ta gọi đó là giá trị của nhãn mác. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có
thể mua bán quyền dán nhãn mác sản phẩm, quyền dán nhãn mác nhiều khi
được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của doanh nghiệp được đông đảo các
nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị
doanh nghiệp.
- Trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động: Đây là một yếu tố có ý
nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể
làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh do việc sử dụng hợp lý nguyên
liệu… trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp
phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động không chỉ
xem ở bằng cấp, bậc thợ mà điều quan trọng là hàm lượng tri thức có trong
mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy đây cũng được coi là
một yếu tố nội tại quyết định đến giá trị của doanh nghiệp.
- Năng lực quản trị kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay, một doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý sản
xuất kinh doanh đủ mạnh giúp để có thể sự dụng tốt nhất các nguồn lực cho

tác định giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động cổ phần hóa diễn ra
được nhanh chóng hơn.
16
16
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán,
sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ các doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch
diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản
ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho
sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả
năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó,
đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới
doanh nghiệp, trong đó giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết
định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong tiến trình
giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp.
- Định giá doanh nghiệp để vay ngân hàng: Nhu cầu mở rộng đầu
tư,mua sắm mới các trang thiết bị và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là rất lớn. Để có được
nguồn vốn tài trợ cho các nhu cầu đó, doanh nghiệp thường tìm đến các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng để vay. Tuy nhiên một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền
cho vay cần được đảm bảo bởi chính tài sản của doanh nghiệp. Từ đó nảy sinh
nhu cầu định giá tài sản, định giá giá trị doanh nghiệp để làm cơ sỏ cho việc
vay vốn của ngân hàng.
b) Đối với các nhà quản trị
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị
phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có
liên quan đến doanh nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài
chính doanh nghiệp, xét cho cùng là phải tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị
doanh nghiệp là sự phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà quản trị kinh

giới (WTO), thì nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị
18
18
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
doanh nghiệp như thế nào càng trở nên cấp thiết vì trong quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan
trọng để các quốc gia tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước, như: cổ
phần hoá, sát nhập, hợp nhất hay giao, bán, khoán và cho thuê nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này để đủ sức đứng vững và
phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang hội nhập một cách mạnh
mẽ, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.
1.2.5 Chất lượng công tác định giá và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng
công tác định giá.
a) Chất lượng công tác định giá
Chất lượng là một khái niệm mang tính trừu tượng và chủ quan của
người đánh giá nhất là đối tượng của việc đánh giá lại là một công việc, một
hoạt động cụ thểlại càng khó hơn. Tuy nhiên do tầm quan trọng của công tác
định giá mà người ta cần phải đánh giá được chất lượng của công tác này.
Công tác định giá doanh nghiệp được coi là có chất lượng khi mà giá xác định
luôn bám sát với giá thị trường, thực hiện theo đúng quy trình, dựa trên một
phương pháp định giá khoa học và đảm bảo được đúng mục tiêu, yêu cầu của
các chủ thể tham gia với thời gian,chi phí thấp nhất.
b) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá.
 Công tác định giá phải đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu và yêu cầu
của các chủ thể tham gia.
Như đã trình bày ở trên, công tác định giá luôn thu hút sự quan tâm của
3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và Nhà quản trị. Mục tiêu của mỗi chủ
thể tham gia không giống nhau, thậm chí có những sự đối lập. Nhà quản trị
luôn mong muốn được định giá cao trong khi các nhà đầu tư lại mong muốn
định giá càng thấp càng tốt. Mâu thuẫn này cần được dung hòa để đi đến

20
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
giá phải phải nắm vững kỹ thuật và đặc biệt là phải luôn gắn yếu tố thị trường
vào khi định giá.
 Công tác định giá phải đảm bảo tốn ít thời gian và chi phí nhất.
Chất lượng của công tác định giá doanh nghiệp không thể coi là tốt khi
mà tiêu chí về thời gian và chi phí không được đảm bảo. Trong nền kinh tế thị
trường, các chủ thể tham gia luôn có sự cạnh tranh, các cơ hội kinh doanh
xuất hiện bất thường, nếu hoạt động định giá diễn ra trong thời gian quá dài sẽ
làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển kinh doanh của doanh
nghiệp. Hơn nữa giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động, bản thân các
yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp luôn có sự thay đổi theo biến động của thị
trường, giá trị của chúng luôn có sự tăng lên hoặc giảm đi và có sự ra đời
hoặc mất đi của một vài yếu tố nào đó. Vì vậy khi công tác định giá kéo dài
thí các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp cũng sẽ bị biến động, điều này dẫn
đến giá trị doanh nghiệp có nguy cơ bị đánh giá sai.
Xét về mặt chi phí, chúng ta khẳng định được rằng chất lượng của công
tác định giá không thể xem là cao khi mà chi phí bỏ ra để thực hiện quá cao.
Chi phí định giá dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng là khoản phí mà doanh
nghiệp phải gánh chịu vì vậy nếu công tác định giá đảm bảo được ở mức thấp
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp sau cuộc định giá.
1.2.6 Các phương pháp định giá và phạm vi ứng dụng của các phương
pháp đó.
a) Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF).
* Cơ sở lý luận:
“Đầu tư” là khái niệm được dùng để chỉ hoạt đông bỏ vốn nhằm đạt
đến khả năng có thể thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nói cách khác,
đó là hoạt động bỏ vốn đầu tư có tính chất đa số, chẳng hạn như mua một số
lượng chứng khoán nào đó nhằm trông đợi vào khoản thu nhập do sự tăng giá
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B

nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho đầu tư là tiêu chuẩn
thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp.
* Phương pháp xác định:
Phương pháp chiết khấu dòng tiền thuần cũng được xây dựng dựa trên công
thức tổng quát (1.2). Nhưng điểm khác biệt căn bản đối với các phương pháp
hiện tại hoá lợi nhuận thuần và phương pháp hiện tại hoá lợi tức cổ phần là ở
chỗ: Các phương khoản thu nhập trong tương lai được thay thế bằng dòng tiền
thuần của dự án đầu tư vào doanh nghiệp:
-
Để dễ dàng phân biệt các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp, người
ta xây dựng công thức tổng quát (1.3) như sau:
Trong đó:
+ V
o
: Giá trị doanh nghiệp.
+ CF
t
: thu nhập thuần năm thứ t
+ V
n
: Giá trị doanh nghiệp ở cuối kỳ đầu tư ( năm thứ n)
+ i: Tỷ suất hiện tại hoá.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này thường được
chia ra thành các bước cơ bản sau:
- Bước 1: Thực hiện dự báo dài hạn về dòng tiền vào và dòng tiền ra có
thể phát sinh trong tương lai, bao gồm:
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
23
+ Dự báo về doanh thu, chi phí vận hành, các khoản vốn đầu tư bổ sung
và các khoản vốn rút ra khỏi quá trình luân chuyển trong từng năm.

- Giá trị doanh nghiệp (tổng thể) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu
cộng giá trị của các trái phiếu mà doanh nghiệp đang lưu hành và giá trị các
khoản nợ khác.
* Phương pháp xác định:
Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán như sau:

Trong đó:
+ Vo: Giá trị doanh nghiệp;
+ Rt: Thu nhập từ chứng khoán năm t;
+ i: Tỷ suất hiện tại hoá;
+ n: Số năm nhận được thu nhập.
- Xác định giá trị thực của trái phiếu: Nếu lợi tức trái phiếu giữ ổn định
hàng năm và bằng R, ta được:
Trong đó:
+ Pn: Mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n.
- Xác định giá trị thực của cổ phiếu
+ Giả định 1: Doanh nghiệp có thể chi trả lưọi tức cổ phần một cách ổn
định hàng năm. Tức là mức lợi tức trong tương lai luôn là một hằng số D và
Cho t

+

, ta có:

Trong đó:
+ Dt: Cổ tức năm t;
+ D: Cổ tức trung bình một năm.
+ Giả định 2: Cổ tức chi trả hàng năm tăng một cách đều đặn theo một
tỷ lệ ổn định là g ( với g < i), ta có:
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status