SKKN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH QUA DẠY PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 (LỚP 12 THPT) - Pdf 26

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC CỦA HỌC SINH QUA DẠY PHẦN LỊCH SỬ VIỆT
NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 (LỚP 12 THPT)
@@@
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong
ngành giáo dục nước ta từ những năm 60 của thế kỉ XX. Trong cuộc cải cách giáo
dục lần 2, năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải
cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước.
Cho đến nay trong lí luận cũng như thực tiễn, không ai phủ nhận vai trò to
lớn của người học, bởi suy cho cùng kết quả thu lượm kiến thức khoa học của học
sinh càng cao bao nhiêu, càng bền vững bao nhiêu thì chất lượng dạy học tốt bấy
nhiêu. Song thực tế cho thấy việc dạy học ở trường phổ thông vẫn còn nhiều điều
đáng lo ngại, chất lượng dạy học còn thấp, việc dạy học theo cách thức truyền
thống còn phổ biến, hiện tượng “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức vẫn còn
tồn tại nhiều nơi.
Mặc dù phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng đã được
chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều, tuy nhiên nhìn chung phương pháp dạy học lịch
sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Có thể
nói phương pháp dạy học lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về
phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng
giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa nhận
thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp nhận
những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học mà còn tiến hành giảng dạy
theo kinh nghiệm chủ nghĩa, đặc biệt chưa chú trọng phát huy tính tích cực của học
sinh.
Yêu cầu thực tiễn đặt ra là cần phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
1
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu

Vấn đề đặt ra cần giải quyết là: thế nào là tính tích cực trong hoạt động học
tập của học sinh? Với đặc trưng bộ môn, học sinh có thể hoạt động tích cực độc lập
được không? Làm thế nào, với phương pháp dạy học cụ thể nào để học sinh tích
cực hoạt động độc lập, tự mình lĩnh hội kiến thức?
Trong học tập lịch sử, quá trình nhận thức của học sinh được bắt đầu bằng
quan sát (tri giác) tài liệu, từ đó nhớ, hình dung lại để hình thành những mối liên hệ
2
tạm thời tương ứng (biểu tượng). Biểu tượng là dấu ấn ghi lại trong ý thức các em
những hình ảnh về sự kiện, hiện tượng lịch sử đã được tri giác. Song để hiểu sự
kiện, hiện tượng quá khứ, phải tìm ra bản chất của chúng, tức là hình thành khái
niệm lịch sử. Muốn làm được việc này phải thông qua các thao tác tư duy như: đối
chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp vạch ra dấu hiệu bản chất. Quá trình này không
tự diễn ra mà đòi hỏi phải có sự kích thích nhất định cho tư duy. Yêu cầu tìm ra bản
chất của sự kiện, hiện tượng quá khứ là những biểu hiện của những nhiệm vụ nhận
thức nảy sinh ra trên cơ sở tri giác. Chính các câu hỏi “như thế nào?”, “tại sao?”
sẽ kích thích óc tìm tòi, sự phân tích, so sánh và khái quát hoá của học sinh. Như
vậy, trong các hoạt động nhận thức lịch sử của học sinh (tri giác, nhớ, hình dung,
tưởng tượng, tư duy ) thì tư duy có vai trò quan trọng. Nếu không có hoạt động
của tư duy thì không thể nhận thức được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử có ý nghĩa
quan trọng
Trước hết, tích cực, độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy sẽ đảm
bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức.
Thứ hai, phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư
duy là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, khơi dậy những xúc cảm lịch sử,
kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh.
Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục, phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, đặc biệt trong tư duy còn là phương thức tốt góp phần phát huy các năng
lực nhận thức, năng lực thực hành, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh nói chung và rèn
luyện các thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng

ghi chép còn khá phổ biến. Thậm chí, hiện tượng đọc chép còn tràn lan. Mặt khác,
một số giáo viên tuy nhận thức được vấn đề của đổi mới phương pháp dạy học nói
chung, dạy học lịch sử nói riêng nhưng lại lấy nguyên nhân học sinh yếu kém
không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh được, cũng chỉ đọc chép, nhồi nhét kiến thức cho học sinh, cho nên không rèn
luyện cho các em năng lực độc lập chiếm lĩnh kiến thức và trang bị phương pháp
học tập tốt. Đây là một thực tế đáng buồn hiện nay, dẫn tới tình trạng học sinh
không thích học môn lịch sử.
Thứ tư, hiện nay SGK lịch sử đã được biên soạn theo tinh thần đổi mới, được
sử dụng đại trà. Thực tiễn sử dụng SGK mới ở trường phổ thông cho thấy phương
pháp dạy học của giáo viên chưa theo kịp việc đổi mới nội dung của sách. Bài viết
trong sách trình bày ngắn gọn có tính gợi mở thì giáo viên chưa có đủ độ sâu về
kiến thức để hướng dẫn học sinh tìm ra những kiến thức chìm trong sách (ví như:
nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của sự kiện, đánh giá nhân vật…). Kênh
hình tăng lên so với sách cũ rất nhiều làm đa dạng nhận thức và bài học sinh động
hơn, học sinh học tập nhẹ nhàng hơn, song nhiều giáo viên chưa hiểu hết nội dung
kênh hình, hiệu quả sử dụng chưa cao. Vẫn còn nhiều giáo viên quan niệm: hỏi thật
nhiều là đổi mới, cho nên chỉ sử dụng câu hỏi mà không khai thác hết các nguồn
kiến thức khác.
Thứ năm, ở các trường phổ thông hiện nay, giáo viên chỉ tập trung vào các
giờ lên lớp, chưa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp.
Như vậy, việc học sinh không thích học lịch sử, chưa tích cực trong hoạt
động học tập nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phương pháp dạy học của giáo
viên. Vì vậy, việc đề xuất các biện pháp sư phạm giúp học sinh phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử là vấn đề cấp thiết.
III. Một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lớp 12
4
THPT)
Trên cơ sở những nguyên tắc trong dạy học lịch sử, tôi đưa ra một số

Trong quá trình học bài ở trên lớp, học sinh thường theo dõi bài giảng của
giáo viên rồi đối chiếu, so sánh với SGK, thậm chí nhiều học sinh không ghi theo
bài giảng của giáo viên mà lại chép trong SGK. Vì vậy, bài giảng của giáo viên
không nên lặp lại ngôn ngữ trong SGK mà nên diễn đạt bằng lời của mình.
Ví dụ: ở mục 1 “Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16”(phần II)
Bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
5
(1946 – 1950)”, giáo viên lược thuật cuộc chiến đấu của quân dân Hà Nội giam
chân địch: “ Từ đầu tháng 12.1946, thực dân Pháp liên tục gây xung đột với công
an và tự vệ của ta, đặc biệt nghiêm trọng là vụ thảm sát tại Yên Ninh, Hàng Bún
ngày 17.12.1946. Trước hành động láo xược đó, ngày 19.12.1946, Hồ Chủ tịch đã
ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến “…chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đáp lại lời kêu gọi, các
chiến sĩ tự vệ Hà Nội đã thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Suốt hơn 20 ngày,
cuộc chiến đấu không cân sức giữa ta và địch đã diễn ra ác liệt tại các cửa ô, thực
dân Pháp sau khi chiếm được các cửa ngõ, chúng tập trung định tiêu diệt lực
lượng của ta ở Liên khu I.
Ngày 7.2.1947, từ 4 mặt quân Pháp mở cuộc công kích vào Liên khu I. Trên
các phố Hàng Nón, Hàng Thiếc, Hàng Lược, Hàng Đường, Hàng Chiếu, chợ Đồng
Xuân đã diễn ra những trận giao chiến quyết liệt. Những cánh quân địch hàng
trăm tên ngày đêm bắn phá, máy bay địch dội bom từng dãy phố, đại bác địch bắn
sập từng căn nhà, súng phun lửa thiêu từng căn gác. Xe tăng húc đổ nhà, xông vào
giữa phố. Cả Hà Nội 36 phố phường nhà xiêu, mái sụp. Các chiến sĩ cảm tử quân
của Trung đoàn Thủ đô đã chiến đấu giành giữ từng căn nhà, từng mảnh tường,
từng góc phố. Có những đội viên cảm tử như Trần Đan một mình dung lựu đạn
đánh lui từng đợt xung phong của địch, mặc dù bị cụt tay vẵn giữ vững trận địa ở
phố Hàng Thiếc, chiến sĩ tên Minh bị đạn khói của địch làm mờ cả 2 mắt vẫn bắn
cản địch ở phố Hàng Nón. Có những thiếu niên liên lạc như em Lai, nửa đêm leo
ống máng nước nhà truyền tin để tiếp đạn, dẫn đường cho bộ đội cơ động kịp thời
giải vây. Quân ta sau 7 ngày đêm chiến đấu đã diệt hơn 200 tên địch tại mặt trận

chí, ngoan cố, Pháp vẫn muốn duy trì quyền lợi ở Đông Dương. Thậm chí giáo viên
còn phải phân tích, bổ sung, nêu thái độ ngoan cố của Pháp – Mĩ: không chịu mời
phái đoàn của Lào và Campuchia, không dám công khai bác bỏ ta nhưng tìm mọi
cách phá hoại.
Giáo viên cũng có thể cho học sinh đọc đoạn trích chữ nhỏ trong quá trình
kết hợp giảng bài.
Như vậy, những đoạn chữ nhỏ trong SGK phải được sử dụng triệt để. Nếu nó
đề cập đến những kiến thức khó, phức tạp thì giáo viên lấy làm nguồn tư liệu dùng
để miêu tả hoặc kể chuyện. Nếu dễ có thể cho học sinh đọc. Điều quan trọng là
không nên làm một cách hình thức mà phải kiểm tra khả năng cảm thụ, nhận thức
của học sinh như thế nào sau khi đọc xong đoạn đó.
1.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa học ở nhà.
Do ở nhà học sinh phải học nhiều môn khác nhau, vì vậy việc hướng dẫn tự
học cho học sinh là khâu quan trọng trong quá trình dạy học. Thông thường ở nhà,
học sinh chỉ học vở ghi, đọc qua SGK mà không biết tự học, vì vậy cần hướng dẫn
các em biết sử dụng SGK một cách có hiệu quả.
Trước hết học sinh đọc toàn bộ bài viết trong SGK (đã được nghe giảng ở
trên lớp) để nắm nội dung chung của bài học, hiểu những sự kiện, những vấn đề
lịch sử. Học sinh nhớ lại những điểm mà giáo viên đã giảng ở trên lớp có liên quan
đến nội dung SGK, trước hết là dàn bài giảng, những sự kiện cơ bản, những nét đặc
trưng, việc đánh giá các sự kiện và nhân vật lịch sử, những kết luận…. Những ấn
tượng về bài giảng giúp học sinh nhanh chóng nắm vững SGK. Sau đó, học sinh
không nhìn vào sách, lập dàn ý nói lại những vấn đề chủ yếu của bài học, tự xem
xét lại những vấn đề chưa nắm được. học sinh đọc lại SGK một lần nữa và tự giải
đáp những vấn đề cần hiểu, cuối cùng tự giải đáp những câu hỏi của bài học trong
SGK hoặc do giáo viên nêu ra.
Khi hướng dẫn học ở nhà theo SGK Lịch sử, nên hướng dẫn có trọng điểm.
7
Ví dụ, ở bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946 – 1950)”, cần chỉ rõ các sự kiện tiêu biểu của cuộc kháng chiến toàn

câu hỏi trong dạy học bao giờ cũng mang yếu tố mở, yếu tố nhận biết, yếu tố khám
phá hoặc khám phá lại, học sinh chỉ cần trả lời một cách thông minh, sáng tạo là
đủ.
Thứ hai, sử dụng câu hỏi có tác dụng to lớn trong việc giáo dục cho học sinh
8
tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành nhân cách học sinh như thái độ tự tin trong
học tập, tính kiên trì…
Thứ ba, sử dụng câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông còn có tác
dụng rèn luyện năng lực nhận thức, đặc biệt là tư duy độc lập, hình thành kĩ năng
giải quyết vấn đề, diễn đạt một vấn đề và hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ, khi dạy bài “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946 – 1950)”, mục “Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch Biên
giới thu – đông 1950”, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao Đảng ta lại chủ động mở
chiến dịch Biên giới thu – đông 1950? Diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch
như thế nào? Muốn trả lời được câu hỏi này, học sinh phải chăm chu nghe giảng,
nghiên cứu sách giáo khoa, lược đồ và tranh ảnh, độc lập suy nghĩ tìm ra nội dung
cần trả lời. Qua đó, các em nắm được tình hình thuận lợi và khó khăn trước khi ta
mở chiến dịch, diễn biến chính và ý nghĩa to lớn của chiến dịch. Đồng thời qua
hoạt động nhận thức trên còn góp phần hình thành cho học sinh niềm tin vào sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, lòng yêu nước, ý chí bất
khuất của nhân dân ta, đồng thời rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy độc lập.
Như vậy việc sử dụng câu hỏi có vai trò, ý nghĩa to lớn trong dạy học lịch sử
ở THPT, nó giúp học sinh nắm vững nội dung bài học; tích cực, chủ động, sáng tạo
trong hoạt động nhận thức.
Khi sử dụng câu hỏi cần lưu ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, câu hỏi và bài tập phải vừa sức, đúng với từng đối tượng, không
nên đặt câu hỏi quá khó, vượt khả năng tư duy của học sinh như đánh giá, nhận xét,
phân tích…và cũng không quá đơn giản như ai lãnh đạo, chiến thắng nào, bao giờ,
có hay không…Tránh tình trạng giáo viên chưa giảng, chưa trình bày sự việc cụ
thể, học sinh chưa có một hiểu biết nào về sự kiện, hiện tượng lịch sử sẽ học mà đã

mạng”. Học sinh trả lời được tức là đã hiểu được kiến thức chủ yếu của bài.
Ví dụ, khi dạy mục 2 “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954) ở Bài 20
“Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”, giáo
viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề: Thắng lợi của ta trong đông xuân
1953 – 1954 buộc địch phải phân tán lực lượng ra nhiều nơi. Chúng quyết định
xây dựng Điên Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, biến
Điện Biên Phủ trở thành một “điểm hẹn lịch sử”. Vậy tại sao chiến dịch lịch sử
đựơc xem là chiến dịch lịch sử có tính chất quyết định trong cuộc chiến tranh
Đông Dương. Các em cùng tìm hiểu.
Một ví dụ khác, khi dạy bài 19 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)” sau khi giới thiệu khái quát qua về giai
đoạn 1951 – 1953 của cuộc kháng chiến, giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao nói đây là
giai đoạn quan trọng chuẩn bị cho thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông –
xuân 1953 – 1954? Để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải chú ý nghe
giảng, tích cực trong quá trình học tập để hiểu rõ bản chất của vấn đề đặt ra.
1.2. Câu hỏi sử dụng trong giờ học.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh
giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt
nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích
tư duy phát triển, đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học
sinh với giáo viên, tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy
rõ vì sao trả lời được, vì sao không trả lời được. Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự
kiện, tư liệu để các em trả lời.
Những câu hỏi trong sách giáo khoa là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức
trong sách, đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải
10
có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án, có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời
như thế nào? Đáp án phải trả lời ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy
học còn là một nghệ thuật. Khi câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải
kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của họ. Đặc biệt là gây

Biên giới thu – đông 1950 đến trước đông – xuân 1953 – 1954 ; Tình hình hậu
phương kháng chiến phát triển như thế nào? Chẳng hạn khi dạy bài 20 “Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” mục “ Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)”, giáo viên đưa ra câu hỏi: “ Chiến dịch Điện
Biên Phủ đã diễn ra như thế nào?” Giáo viên kết hợp với việc sử dụng lược đồ
hướng dẫn học sinh tìm hiểu diễn biến, tổ chức cho các em trao đổi, thảo luận câu
11
hỏi đưa ra. Điều đó giúp các em nắm vững nội dung sự kiện diễn ra, phát triển các
thao tác tư duy…
- Loại câu hỏi nêu lên đặc trưng, bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
bao gồm sự đánh giá, thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy.
Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh. Nó đòi hỏi các em học sinh
phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện
tượng lịch sử. học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này. Tuy nhiên giáo viên cần
kiên trì, đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi chính.
Ví dụ như khi dạy bài 18 “ Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1950)” ở mục “Chiến dịch Biên giới thu – đông
1950”, giáo viên sử dụng câu hỏi “Tại sao ta chọn Đông khê làm điểm mở đầu
chiến dịch mà không phải Cao Bằng hay Thất Khê?” Muốn trả lời được câu hỏi
này, học sinh phải chú ý theo dõi, quan sát bản đồ để thấy được vị trí chiến lược
của Đông Khê. Giáo viên hướng dẫn các em đưa ra câu trả lời, rồi nhấn mạnh các ý
lớn: Giữa Đông Khê và Cao Bằng, nếu đánh Cao Bằng thì sẽ đụng đầu với với lực
lượng mạnh của địch, hệ thống phòng ngự vững chắc, muốn đánh thắng phải tốn
nhiều xương máu. Đồng thời nếu đánh Cao Bằng, địch sẽ rút tất cả các cứ điểm từ
Đông Khê đến Lạng Sơn, như vậy sẽ không tạo điều kiện cho ta đánh quân rút
chạy. Đông Khê là một cứ điểm, địch tương đối yếu (có một tiểu đoàn) nhưng lại là
vị trí trọng yếu, mất Đông Khê, địch phải cho quân ứng cứu, Cao Bằng phải rút
chạy… Ta có cơ hội tiêu diệt quan tiếp viện và quân rút chạy của địch. Hơn nữa
Đông Khê ở xa Hà Nội, nếu địch tiếp viện cũng mất nhiều thời gian. Vì vậy ta
quyết định đánh Đông Khê.

tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá lịch
sử của học sinh.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu
những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc
trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Ví dụ,
xem bức ảnh “Cảm tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp” chúng
ta không thể quên được cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Hà Nội chống
thực dân Pháp trở lại xâm lược.
Trên cơ sở biện pháp chung về đồ dùng trực quan, tôi đưa ra một số biện
pháp khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử phần Lịch sử Việt Nam
từ năm 1945 đến 1954 (SGK Lịch sử 12 THPT)
3.1 Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức
mới.
- Sử dụng câu hỏi gợi mở để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung kênh
hình.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tổ chức lĩnh hội kiến thức mới, phát huy
tính tích cực học tập của các em, giáo viên nên kết hợp cho học sinh theo dõi đồ
dùng trực quan (lược đồ, bản đồ, tranh ảnh) với việc sử dụng câu hỏi gợi mở từ dễ
đến khó mang tính chất khái quát, yêu cầu các em phát huy cao độ năng lực tư duy
độc lập để rút ra kết luận có tính chất khái quát, giải quyết những vấn đề trọng tâm
của bài. Trong quá trình học sinh trao đổi, thảo luận để tìm ra câu trả lời, giáo viên
là người đóng vai trò điều khiển chung, hướng dẫn, giúp đõ học sinh lần lượt từng
bước giải quyết vấn đề thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở.
Ví dụ khi dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946 – 1950), giáo viên có thể sử dụng lược đồ “Chiến dịch Biên
giới thu – đông 1950”. Trước hết giáo viên lựa chọn thời điểm sử dụng lược đồ cho
hợp lí, đó là khi dạy mục 2 “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950”, trong quá trình
13
hướng dẫn học sinh tìm hiểu chiến dịch, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi gợi mở
khi giảng từng nội dung như:

các câu hỏi gợi mở do giáo viên đặt ra. Sau khi học sinh tìm hiểu, giáo viên yêu cầu
một em lên bảng lược thuật, giáo viên và các bạn ở dưới bổ sung. Còn đối với đối
tượng học sinh học trung bình hoặc thời gian bài học không cho phép, giáo viên
nên giới thiệu khái quát lược đồ, tường thuật ngắn gọn rồi cho các em trao đổi. Ví
dụ, khi tường thuật diễn biến của chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, giáo viên
nên sử dụng lược đồ, sau đó giới thiệu khái quát về bản đồ cũng như các kí hiệu và
14
đưa ra các câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về địa bàn chiến dịch và lực lượng quân địch
tại đây? Với câu hỏi này học sinh sẽ xác định được địa bàn chiến dịch cũng như
hiểu được nhiệm vụ của chiến dịch. Sau đó giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với
tài liệu tham khảo, tranh ảnh, đàm thoại để trình bày diễn biến của chiến dịch biên
giới, trong đó tập trung vào tường thuật hoặc lược thuật trận Đông Khê:
Biên giới Việt – Trung là một dải núi rừng từ tây đến đông bắc Bắc bộ.
Đường quốc lộ chiến lược dài 300 km qua các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng
Ninh. Tại đây địch có 11 tiểu đoàn và 9 đại đội, trong có có 4 tiểu đoàn Âu Phi làm
lực lượng cơ động. Ngày 25.7.1950, Đảng ủy mặt trận được thành lập do đồng chí
Võ Nguyên Giáp làm bí thư, Bộ chỉ huy chiến dịch do đồng chí Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp làm chỉ huy kiêm trưởng chính ủy, đồng chí Trần Đăng Ninh làm chủ
nhiệm Tổng cục cung cấp trực tiếp bộ máy hậu cần chiến dịch…
Đầu tháng 8.1950, đồng chí tổng tư lệnh cùng cơ quan Bộ chỉ huy lên đường
ra mặt trận. Do tính chất quan trọng của chiến dịch, Bác Hồ cũng đi kiểm tra tình
hình chuẩn bị mặt trận. Ở đây giáo viên nên sử dụng bức tranh “Bác Hồ quan sát
mặt trận biên giới” và Hình 49 (SGK) “Bác Hồ đi thăm một đơn vị tham gia chiến
dịch Biên giới thu – đông 1950” kết hợp với bài thơ của Người:
“Chống gậy lên non xem trận địa,
Vạn trùng núi đõ vạn trùng mây.
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu,
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.”
(Bản dịch của Xuân Diệu)
Tiếp đó giáo viên giới thiệu về hệ thống phòng ngự trên đường số 4 với các

được, mọi người đều lo lắng. Lúc này, Trần Cừ cố lê người sát lô cốt, anh lại bị
thương lần nữa song vẫn cố nhoài người lên rồi gục xuống và lấy hết sức dùng
thân mình bịt lỗ chấu mai địch. Hỏa lực của địch ngừng lại và xung kích liên tiếp
xông lên. Lời hô: “noi gương Trần Cừ, trả thù cho Trần Cừ” vang lên, các chiến sĩ
như nước vỡ bờ, các tổ 3 người tràn vào, nhanh chóng tiêu diệt lô cốt. 7 giờ sáng
hôm sau, quân địch trong chiến hầm cố thủ cuối cùng vẫn ngoan cố chống cự. Một
quả bộc phá đánh sập chiếc hầm ngầm vững chắc đó, những tên chỉ huy run sợ
chui ra hàng. Sau hơn 2 ngày đêm chiến đấu dũng cảm quân ta đã hoàn toàn giành
thắng lợi ở trân Đông Khê.
Đến đây, giáo viên hỏi học sinh: “Chiến thắng Đông Khê có ý nghĩa như thế
nào?”
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại: Chiến thắng Đông Khê chứng tỏ
nghệ thuật chỉ đạo quân sự tài tình của Đảng, đánh dấu bước tiến mới về trình độ
đánh công kiên của bộ đội ta, cổ vũ khí thế lập công trên khắp mặt trân, thể hiện
tinh thần dũng cảm trong chiến đấu của thế hệ trẻ Việt Nam. Tướng Aliuc chỉ huy
đồn Đông Khê đã phải thốt lên: “ chúng tối chưa bao giờ gặp phải một đối phương
dũng cảm như vậy, thật là kì diệu.”
Đúng như dự định của ta về kế hoạch “điệu hổ li sơn”, Đông Khê bị tiêu
diệt, hệ thống phòng ngự trên đường số 4 như một con rắn bị gãy khúc. Địch núng
thế tìm cách rút khỏi Cao Bằng song muốn rút phải tiếp viện. Ngày 30.9.1950, binh
đoàn Lơpagiơ từ Thất Khê lên yểm hộ cho quân từ Cao Bằng về. Ngày 3.10.1950,
binh đoàn Sác tông rút khỏi Cao Bằng. Đoán trước ý định của địch, ta bố tri quân
kiên nhẫn chờ chúng đến tiêu diệt. Địch rất thận trọng tránh dường quốc lộ, đi tắt
đường rừng song chúng vẫn lọt vào trận địa của ta. Quân ta chặn đánh địch, chia
cắt chúng, khiến cho 2 cánh quân này không liên lạc được với nhau. Sau 10 ngày
chiến đấu, đại bộ phận lực lượng của địch từ Cao Bằng về và từ Thất Khê lên đều
16
bị tiêu diệt. Bọn còn lại chạy vào rừng cũng bị truy kích. Sác tông và Lơpagiơ
không gặp được nhau để tiếp ứng nhau, mà lại gặp nhhau trên đường vào nhà
giam của ta. Thất bại nặng nề, địch vội và rút luôn các cứ điểm còn lại trên đường

phải bức ảnh)… Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ngồi giữa. Giáo viên tiếp tục gợi
mở “Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi ở giữa nói lên điều gì?”. Điều đó nói lên Bác và
Đảng là trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc, tổ chức lãnh đạo khối đại đoàn
kết.
Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi: “Qua đó em có suy nghĩ gì về mục đích
tổ chức mặt trận của Đảng?”. Mặt trận Liên Việt là mặt trận dân tộc thống nhất,
17
đoàn kết tất cả các đoàn thể, tôn giáo, đảng phái, các cá nhân yêu nước nhằm thắt
chặt khối đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến, kiến quốc thắng lợi. Tuyên ngôn
của đại hội ghi rõ mục đích của Mặt trận Liên Việt là tiêu diệt thực dân Pháp,
đánh bại can thiệp Mĩ, trừng trị Việt gian phản quốc, thực hiện một nước Việt Nam
độc lập, thống nhất dân chủ, tự do, phú cường và góp sức vào bảo vệ nền hoà bình
dân chủ thế giới.
Tóm lại việc sử dụng đồ dùng trực quan cho học sinh lĩnh hội kiến thức mới
không chỉ làm cho kiến thức học sinh tiếp thu trở nên sâu sắc mà còn giáo dục cho
các em những tư tưởng, tình cảm đúng đắn và phát triển kĩ năng quan sát, phân
tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch sử của các em.
3.2. Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức học sinh củng cố kiến thức.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố kiến thức đã học cho học sinh
mang lại nhiều hiệu quả hơn so với việc củng cố kiến thức bằng trao đổi đàm thoại,
nêu và trả lời câu hỏi đơn thuần. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố
kiến thức gây được hứng thú học tập, giúp các em khắc sâu kiến thức.
- Đối với lược đồ - bản đồ, để củng cố kiến thức cho học sinh giáo viên có
thể thông qua nhiều hình thức khác nhau:
+ Dựa vào bản đồ để nêu và trả lời các câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát
kĩ hơn và nêu lên các điểm mới.
+ Dựa vào bản đồ để trình bày lại những kiến thức đã học một cách phong
phú, cụ thể, sinh động hơn hoặc sử dụng bản đồ nhưng dưới dạng bản đồ “câm”,
yêu cầu học sinh điền đầy đủ các kí hiệu rồi dựa vào đó để trình bày lại các vấn đề
đã học.

Ví dụ khi dạy bài 20, giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà xây dựng niên
biểu các sự kiện lớn của ta từ sau thu – đông 1950 đến khi kết thúc kháng chiến:
Thời
gian
Quân sự Chính trị -
ngoại giao
Kinh tế Văn hoá –
giáo dục
1951
- Chiến dịch
Trung du
- Chiến dịch
Hoàng Hoa
Thám.
- Chiến dịch
Quang Trung.
- Chiến dịch
Hoà Bình
- Đại hội đại
biểu toàn quốc
lần II của Đảng.
-Hợp nhất Mặt
trận Việt Minh
– Liên Việt.
- Khối liên minh
Việt – Miên –
Lào được thành
lập.
- Uy tín quốc tế
của nhà nước

kiệm
1953 -
1954
Chiến dịch
lịch sử Điện
Thắng lợi của
Hội nghị
-Triệt để giảm
tô, thực hiện
19
Biên Giơnevơ. giảm tức, cải
cách ruộng đất.
- Công nghiệp
quốc phòng
được đẩy
mạnh.
3.3. Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh.
Có nhiều cách để tiến hành kiểm tra, đánh giá trong đó việc sử dụng đồ dùng
trực quan là một biện pháp đạt hiệu quả cao. Việc kết hợp sử dụng đồ dùng trực
quan trong kiểm tra đánh giá có thể tiến hành trong nhiều trường hợp như kiểm tra
bài cũ, kiểm tra viết (15 phút, 45 phút…) khi kiểm tra chất lượng học sinh đầu kì,
giữa kì, cuối kì hoặc bài kiểm tra theo phân phối chương trình.
- Kết hợp câu hỏi tự luận với sử dụng lược đồ để kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của học sinh.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan là một phương thức tốt nhất để kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh vì nó khuyến khích học sinh cách học thông
minh, sáng tạo chứ không phải ghi nhớ máy móc những điều đã học từ phía giáo
viên hay những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa.
Ví dụ, khi kiểm tra mức độ tự học ở nhà của học sinh, giáo viên đặt câu hỏi

chú trọng học môn này. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây nên. Nhưng phải
thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả, chất lượng giảng dạy của
chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay, đặc biệt là việc duy trì kiểu dạy truyền
thống “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức, học sinh thụ động trong tiếp thu
kiến thức. Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo cho học sinh qua những giờ học lịch sử rõ ràng là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng và cũng hết sức nặng nề của người giáo viên dạy môn lịch sử.
Học tập của học sinh là một quá trình nhận thức, vì vậy nói đến tính tích cực
học tập là nói đến tính tích cực của sự nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng
thái hoạt động nhận thức của học sinh thể hiện trong khát vọng học tập, cố gắng trí
tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.
Để giúp học sinh phát huy tính tích cực trong quá trình học tập môn lịch sử ở
trường THPT đòi hỏi giáo viên phải sử dụng nhiều biện pháp sư phạm Tuy nhiên
trong dạy học lịch sử không có biện pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính
tích cực, chủ động trong quá trình học tập của các em. Việc sử dụng các biện pháp
sư phạm nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng
một cách linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các
em.
Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy phần
Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến năm 1954, bản thân tôi đã nhận thấy rằng những
kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với những
tiết dạy học theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ
động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc
thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi
nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp
dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học
sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.
21
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn
lịch sử ở trường THPT, hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh những sai


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status