hoạt động tuyên truyền pháp luật của các Tổ chức xã hội trên địa bàn một số địa phương - Pdf 26

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
Đảng CSVN: Đảng cộng sản Việt Nam
Đoàn TNCSHCM: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Hội CCB : Hội Cựu Chiến Binh.
Hội LHPNVN: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Hội NDVN: Hội Nông dân Việt Nam.
MTTQVN: Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
TCXH: Tổ chức xã hội.
.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật cho nhân dân,
từng bước xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật là một trong
những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là tiền đề quan trọng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh
hiện nay, khi Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới về mọi mặt
kinh tế, văn hóa, xã hội…Đối với các TCXH, tuyên truyền pháp luật là một
trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của các tổ chức này. Là
những tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện, thu hút đông đảo nhân
dân tham gia nên TCXH có điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân,
góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối
tượng này. Trong thời gian qua, với các quy định về hoạt động tuyên truyền
pháp luật của TCXH, hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định, tuy
nhiên bên cạnh đó còn những hạn chế cần khắc phục để phát huy hơn nữa vai
trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật. Để tìm hiểu về TCXH
và vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, tác giả đã chọn
đề tài này để nghiên cứu làm khóa luận.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH

Khóa luận được chia thành 3 phần lớn:
Chương I: Một số vấn đề chung về TCXH.
Chương II: Thực trạng quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp
luật của TCXH và hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH.
Chương III: Những giải pháp nâng cao vai trò của TCXH trong lĩnh vực
tuyên truyền pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TCXH
1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TCXH.
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay vẫn tồn tại một số quan niệm khác nhau về TCXH. Cụ thể :
Theo quan niệm của Khoa Luật, Đại Học Quốc Gia Hà Nội thì: “TCXH là
bộ phận của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, được hình thành theo nguyên tắc
tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản của những thành viên tham gia
nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của họ, thu hút đông đảo quần chúng vào
quản lý các công việc của nhà nước và xã hội, nâng cao tính tích cực chính trị
của cá nhân công dân”.
Trường Đại Học Luật Hà Nội cũng đưa ra quan niệm như sau: “TCXH là
hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có chung mục đích,
hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, không vì mục đích lợi nhuận nhằm đáp
ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội”
Theo Nghị Định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003, TCXH được gọi là Hội và
được hiểu như sau: “Hội được quy định trong Nghị Định này được hiểu là tổ
chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích,
cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hỗ trợ nhau hoạt động
có hiệu quả, góp phần và việc pháp triển kinh tế, xã hội của đất nước, được tổ
chức và hoạt động theo nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan”.
Trên đây là những quan niệm hiện nay về TCXH ở nước ta hiện nay, qua
đó có thể thấy rằng TCXH được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Quan điểm thứ

pháp” không xâm hại đến lợi ích chung của nhà nước, của cộng đồng mới được
đáp ứng. Do vậy quan niệm thứ nhất này không thể áp dụng chung cho tất cả các
TCXH, không thể dùng làm khái niệm chung về TCXH.
TCXH được xác định trong Nghị Định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003
phải thỏa mãn các tiêu chí sau:
• Là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức việt Nam cùng ngành nghề,
cùng sở thích, cùng giới, cùng chung mục đích.
• Hoạt động thường xuyên không vì lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của hội viên
• Hoạt động nhằm pháp triển kinh tế - xã hội đất nước.
Một TCXH nào đó đáp ứng các tiêu chí trên mới là TCXH theo phạm vi
điều chỉnh của Nghị định này. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 thì Nghị
định này không áp dụng với:
“ a; Mặt Trận tổ Quốc Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam,
Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam,
Hội Cựu Chiến Binh, Hội Nông Dân Việt Nam.
b; Các tổ chức giáo hội…”
Trong khi đó khoản 2 điều 4 Nghị Định này lại quy định “Hội được công
nhận là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp”. NHư
vậy quy định về TCXH tại khoản 2 điều 1 và khoản 2 điều 4 mâu thuẫn với
nhau, bởi vì thực chất các tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 là tổ
chức chính trị - xã hội như quy định tại khoản 2 Điều 4, là một bộ phận cấu
thành của hệ thống TCXH ở nước ta, vậy nhưng các TCXH này lại không được
coi là TCXH theo quy định của Nghị định này. Hơn nữa, khoản 4 điều 2 quy
định Hội được công nhận là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội
nghề nghiệp, tuy nhiên đó là những tổ chức nào thì Nghị định lại không đưa ra
cách hiểu cụ thể sau khi đã gạt các tổ chức MTTQ, Hội LHPNVN, Hội CCBVN,
Đoàn TNCSHCM, Hội NDVN ra ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghi định, điều
này cũng có nghĩa là theo quan niệm của Nghị định 88/2003 thì các tổ chức trên
không phải là tổ chức chính trị - xã hội. Đây là điểm bất cập của Nghị định

1.1.2 Đặc điểm của TCXH
Mỗi TCXH đều có những hoạt động đặc thù phản ánh vị trí, vai trò của
mình trong hệ thống chính trị. Mặt khác các TCXH lại có những đặc điểm chung
nhất định phân biệt với các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế. Trên cơ sở khái
niệm đã nêu, ta có thể thấy rõ những đặc điểm chung nhất của TCXH, bao gồm:
Thứ nhất: Các TCXH được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện của các
thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở
thích.
Đây là dấu hiệu đặc trưng thể hiện quyền tự do của công dân trong việc
tham gia hoặc không tham gia một TCXH nhất định. Bất kì TCXH nào được lập
ra đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của mỗi cá nhân, không ai có quyền ép
buộc người khác phải tham gia hoặc không được tham gia vào các TCXH. Ở
nước ta các TCXH chủ yếu là do nhân dân thành lập trên cơ sở tự nguyện của
các thành viên có chung một đặc điểm nào đó, ví dụ: Đảng cộng sản Việt nam là
tập hợp những người cùng chung mục đích, lý tưởng chính trị. Những ai có
chung chí hướng, mục tiêu, lý tưởng, mong muốn được đứng trong hàng ngũ của
Đảng và đáp ứng các yêu cầu khác thì có thể trở thành Đảng viên Đảng cộng sản
Việt Nam, không phân biệt thành phần xuất thân, giới tính. Yếu tố tự nguyện
còn thể hiện trong việc kết nạp hay khai trừ các thành viên của TCXH hoàn toàn
do TCXH và các thành viên quyết định. Mặc dù một số TCXH do nhà nước sáng
kiến thành lập ví dụ Đoàn Luật Sư.. nhưng nhà nước không can thiệp và cũng
không sử dụng quyền lực nhà nước để chi phối việc gia nhập, kết nạp thành viên
hay lựa chọn những người đứng đầu tổ chức, mà vấn đề này do điều lệ quy định
phù hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động và dấu hiệu tập hợp thành viên của
chính TCXH đó.
Mỗi TCXH là tập hợp của những thành viên có cùng chung dấu hiệu, đặc
điểm, đó có thể là cùng chung giai cấp như Hội Nông Dân, cùng giới tính như
Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam…hay cùng chung mục đích, lý tưởng như
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Với những điểm chung đó, họ liên kết nhau lại, tìm
tiếng nói chung trong một hình thức TCXH nhất định nhằm đáp ứng và bảo vệ

chức.
Dù TCXH hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước thì hoạt
động của nó vẫn mang tính tự quản, nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công
việc nội bộ của TCXH. Phần lớn các TCXH đều có điều lệ hoạt động, đó là
những quy định do các thành viên trong tổ chức xây dựng và ban hành làm cơ sở
cho việc tổ chức và hoạt động của mỗi TCXH, điều lệ này được xây dựng thông
qua đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể các thành viên, và phải được cơ quan
nhà nước phê chuẩn. Điều lệ của TCXH không phải là văn bản pháp luật, các
quy định trong điều lệ không mang tính pháp lý do đó chúng chỉ điều chỉnh các
quan hệ trong nội bộ TCXH và chỉ có hiệu lực đối với các thành viên trong tổ
chức. Để quản lý các TCXH, nhà nước ban hành quy chế pháp lý hành chính của
TCXH, trong quá trình hoạt động các tổ chức này sẽ tự xử lý các công việc nội
bộ của mình, nhà nước chỉ can thiệp nếu hoạt động của TCXH trái với các quy
định của pháp luật.
Thứ tư : TCXH hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Đây là đặc điểm rõ nét nhất để phân biệt TCXH với các tổ chức kinh tế
như Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hay các Hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ…Trong khi các tổ chức kinh tế luôn coi lợi nhuận là mục
tiêu hàng đầu, quyết định sự tồn tại và hoạt động thì TCXH thường hướng tới
các mục tiêu khác, không mang tính lợi nhuận như tương trợ, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các thành viên; hoạt động vì cộng đồng , vì xã hội trong các
lĩnh vực như y tế, giáo dục, môi trường. Thành viên của TCXH không tham gia
vào tổ chức với ý định tìm kiếm lợi nhuận mà hướng tới đáp ứng những nhu cầu
của cá nhân, xã hội do họ lựa chọn.
Tuy vậy cũng phải hiểu một cách đầy đủ rằng TCXH hoạt động không
nhằm mục đích lợi nhuận nhưng vẫn có thể có các hoạt động có lợi nhuận. Các
TCXH có thể làm kinh tế từ các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch hoặc kinh
doanh gây quỹ nhưng lợi nhuận thu được sẽ được sử dụng cho hoạt động của
TCXH theo điều lệ mà không chia cho bất cứ cá nhân nào trong tổ chức. Trong

Nam được Hiến pháp 1992 quy định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội
(Điều 4).
 Tổ chức chính trị - xã hội: Đây là những tổ chức quần chúng rộng rãi có cơ
cấu tổ chức hoàn thiện được chia thành nhiều cấp để hoạt động trong phạm vi cả
nước bao gồm những cơ quan, tổ chức, hình thành từ trung ương đến địa phương
theo các đơn vị hành chính lãnh thổ và theo các ngành, lĩnh vực quản lý nhà
nước. Các tổ chức này có điều lệ hoạt động do đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn
thể các thành viên thông qua.
Các tổ chức chính trị xã hội ở nước ta gồm: MTTQVN, Công đoàn, Đoàn
TNCSHCM, Hội LHPNVN, Hội NDVN, Hội CCBVN.
 Tổ chức xã hội nghề nghiệp: Là những tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến
thành lập được hình thành theo quy định của nhà nước để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội về phát triển việc làm, mở rộng dân chủ…Có thể nói rằng,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp được thành lập để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ
quan nhà nước giải quyết một số công việc xã hội, hoạt động nghề nghiệp của
các tổ chức này đặt dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy
nhiên các tổ chức này vẫn có đầy đủ những dấu hiệu chung của tổ chức xã hội:
Hoạt động mang tính tự quản; đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi thành lập tổ
chức; hoạt động không mang tính quyền lực nhà nước. Có thể kể đến một số tổ
chức xã hội nghề nghiệp tiêu biểu là Trung tâm trọng tài, Đoàn Luật sư,..
 Các tổ chức tự quản: được thành lập theo sáng kiến của nhà nước, hoạt động
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện nhiệm vụ tự quản trong một phạm vi
nhất định đối với các công việc mà nhà nước không trực tiếp quản lý. Khác với
tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có cơ cấu tổ chức hoàn thiện, được
hình thành từ trung ương đến địa phương để hoạt động trong phạm vi cả nước thì
các tổ chức tự quản được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, không tạo thành hệ thống, giữa các tổ chức cùng loại không có
mối quan hệ về mặt tổ chức. Hoạt động của các tổ chức này đặt dưới sự quản lý
trực tiếp của các cơ quan nhà nước hữu quan. Ví dụ: tổ chức thanh tra nhân dân,
tổ dân phố.

nhà nước và hệ hống chính trị là yếu tố quyết định đối với thắng lợi của
công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ khi giành được chính quyền đến nay, qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau, Đảng luôn là lực lượng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức trong
hệ thống chính trị. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phát huy vai
trò hạt nhân chính trị và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị ngày càng quan trọng. Nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và xã hội đã được Đại hội VI của Đảng đề ra một cách cụ
thể và được các Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X tiếp tục khẳng định và
phát triển bao gồm:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự
phát triển của toàn xã hội trong từng thời kì phát triển, trên tất cả các
lĩnh vực;
- Đảng vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở
cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước, củng cố và phát triển hệ
thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
- Đảng đề ra những quy định và chính sách về công tác cán bộ; phát
hiện lựa chọn, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú và những người ngoài
Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn để bố trí
vào làm việc trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội.
Về thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là
lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để nhà nước và các
tổ chức thành viên của hệ thống chính trị có cơ sở để chủ động sáng tạo
trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ, phương pháp và biện

phát triển nông nghiệp nông thôn.
• Đoàn TNCSHCM là tổ chức chính trị - xã hội, liên minh tự nguyện của
thanh niên Việt Nam, là đội hậu bị và cánh tay đắc lực của Đảng cộng sản
Việt Nam, là thành viên có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính
trị. Trong chức năng, nhiệm vụ của mình Đoàn TNCSHCM tập hợp, đoàn
kết, giáo dục và và rèn luyện thế hệ trẻ, tham gia tích cực vào các hoạt
động của nhà nước và xã hội; phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần chúng
khác chăm lo và bảo vệ quyền lợi của thế hệ trẻ, đề xuất với Đảng và nhà
nước các chính sách, quan đểm phát huy năng lực và tạo điều kiện cho thế
hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện.
• Hội LHPNVN là tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ Việt Nam, là thành
viên có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Hội LHPNVN tập hợp,
đoàn kết, động viên, giáo dục các tầng lớp phụ nữ tham gia tích cực vào
các công việc nhà nước và xã hội, các quá trình phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục, thực hiện bình đẳng giới, phát huy vai trò đặc biệt của phụ nữ
trong việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, giáo dục các
thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam.
• Hội CCB Việt Nam là thành viên của MTTQ, một tổ chức thành viên của
hệ thống chính trị. Trong phạm vi hoạt động của mình, Hội CCB tập hợp,
đoàn kết, bồi dưỡng và động viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản
chất cách mạng, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền, phát huy dân
chủ góp phần giữ ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh; tham
gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; góp phần
tích cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ và tham gia vào hoạt động đối ngoại
của Đảng và nhà nước.
Sự tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội mang ý nghĩa chính trị quan
trọng, các tổ chức xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân, với vai trò hội tụ
sức mạnh toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị. TCXH góp phần ổn định
chính trị từ trung ương đến địa phương tạo điều kiện để nhà nước thực hiện việc

phong trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ nhau
phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội.
3- Tham gia với Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân cùng cấp tổ chức các
cuộc vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn nhân dân
thực hiện hương ước, quy ước về nếp sống tự quản ở thôn, làng, ấp, bản, tổ
dân phố, cộng đồng dân cư khác ở cơ sở phù hợp với pháp luật, góp phần
xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân.
4- Tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở ” (Điều 7)
Nghị định 59/2001/NĐ-CP ngày 16/08/2001 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật MTTQ cũng nêu rõ trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong việc phối hợp với Ủy ban MTTQVN, các thành viên của
Mặt trận cùng cấp xây dựng chương trình tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân
dân thực hiện pháp luật.
Luật Công Đoàn năm 1990 cũng quy định “Công đoàn có trách nhiệm
tuyên truyền Hiến pháp và pháp luật, giáo dục người lao động ý thức chấp hành
và tham gia đấu tranh bảo vệ pháp luật”
Tương tự, Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 quy định tại khoản
5 Điều 22 “TCXH có quyền phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung
cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật”
Trên cơ sở pháp luật quy định về tuyên truyền, giáo dục pháp luật, một số
TCXH trong đó có Hội Luật Gia đã cụ thể hóa nội dung này trong điều lệ của
mình, cụ thể: “Hội Luật gia Việt Nam có nhiệm vụ, qyền hạn tham gia tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho
hội viên, cán bộ, công chức và nhân dân, Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý miễn
phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách; thành lập các trung tâm tư vấn
pháp luật” (Điều 3). Các hội viên của Hội Luật Gia được cung cấp thông tin về
pháp luật, được bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật đồng thời cũng có nghĩa
vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật theo chương trình của

pháp luật. Xây dựng điểm sáng trong chấp hành pháp luật tại các cơ sở xã,
phường, thị trấn, mỗi xã, phường, thị trấn trong cả nước xây dựng được
một “nhóm nòng cốt”, “câu lạc bộ pháp luật” ở khu dân cư hoạt động có
hiệu quả. Để đạt được các mục tiêu trên, đề án đưa ra các giải pháp thực
hiện trong đó MTTQVN các cấp giữ vai trò chủ đạo xây dựng chương
trình, kế hoạch chung về phong trào tuyên truyền và vận động chấp hành
pháp luật, theo đó các tổ chức thành viên của MTTQ phát động phong trào
chấp hành pháp luật theo từng đối tượng đoàn viên, hội viên và các tầng
lớp nhân dân. Đề án phân công rõ trách nhiệm của MTTQ và các thành
viên, trong đó:
• Ủy ban Trung ương MTTQVN có trách nhiệm xây dựng kế hoạch,
chương trình theo từng thời gian cụ thể; hướng dẫn, kiểm tra các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai thực hiện đề án tại
cộng đồng dân cư.
• Hội NDVN phối hợp với các cơ quan tham gia đề án lồng ghép việc
tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong hội viên nông dân
với phong trào nông dân sản xuất giỏi, hoạt động của câu lạc bộ
nông dân.
• Trung ương Đoàn TNCSHCM tăng cường phổ biến giáo dục pháp
luật trong đoàn viên thanh niên; phát huy vai trò nòng cốt của thanh
niên trong công tác phòng, chống ma túy, tệ nạn xã hội, bảo vệ môi
trường, thực hiện Luật hôn nhân và gia đình, luật nghĩa vụ quân sự..
gắn với việc thực hiện đề án với phong trào “thi đua tình nguyện
xây dựng và bảo vệ tổ quốc”
 Với tầm quan trọng của vấn đề tuyên truyền pháp luật, nhất là trong giai
đoạn hiện nay, ngày 12/03/2008 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 37/2008/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp
luật từ năm 2008 đến 2012, theo đó đến hết năm 2012, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật phấn đấu đạt được các mục tiêu cụ thể sau:
• Từ 80% đến 90% người dân trên toàn quốc được tuyên truyền pháp


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status