TIỂU LUẬN MÔN HỌC CÔNG TY XUYÊN ĐA QUỐC GIA CÁC CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TNCs CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀO VIỆT NAM - Pdf 26

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA (TNCs)
ĐỀ TÀI:
CÁC CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TNCs
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀO VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN : PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM ANH
NHÓM 1 : LÊ THỊ BẮC
DƯƠNG THỊ MẾN
ĐỖ HUY PHÚ
NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
NGUYỄN THỊ THANH THÚY
LỚP : K22 - KTQT

Hà Nội, tháng 3 năm 2015

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Số hiệu Tên bảng Tran
g
1 1.1
Tóm tắt một số ưu đãi đối với doanh nghiệp thực hiện
chuyển giao công nghệ
11
2
3
4
3
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Số hiệu Tên hình Trang
1
2

nước nào càng nắm giữ được nhiều công nghệ sản xuất hiện đại tiên tiến thì kinh tế càng phát
triển. Chính vì thế hoạt động chuyển giao công nghệ phát huy vai trò của nó hơn bao giờ hết.
Các nước trao đổi, chuyển giao công nghệ để tranh thủ lợi thế so sánh, nâng cao năng lực sản
xuất và năng lực cạnh tranh của các quốc gia.
Việt Nam không nằm ngoài xu hướng trên. Tuy nhiên, việc tiếp nhận được công nghệ
mới, phù hợp từ các nước phát triển là không dễ dàng. Chính phủ Việt Nam đã và đang có
những chính sách thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ vào Việt Nam từ nhiều nguồn
khác nhau. Một trong những nguồn lực chuyển giao công nghệ hiệu quả là thu hút sự đầu tư
của các TNC. Chuyên đề “Các chính sách thúc đẩy TNCs chuyển giao công nghệ vào Việt
Nam” khái quát, phân tích thực trạng chuyển giao công nghệ và các chính sách của chính phủ
Việt Nam trong những năm qua.
Chuyên đề được chia ra làm 4 chương:
Chương 1: Khái quát chung
Chương 2: Thực trạng chuyển giao công nghệ của các TNC vào Việt Nam thời gian qua
Chương 3: Các chính sách và đánh giá các chính sách thúc đẩy TNCs chuyển giao công
nghệ vào Việt Nam
Chương 4: Giải pháp thúc đẩy các TNC chuyển giao công nghệ vào Việt Nam
6
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1 Một số vấn đề về công nghệ
Công nghệ là hệ thống quy trình chế biến vật chất và thông tin để chuyển các yếu tố đầu
vào thành các yếu tố đầu ra. Công nghệ có 4 phần cơ bản liên hệ mật thiết với nhau, bao gồm:
kỹ thuật, tổ chức, thông tin và con người. Đặc trưng rất nổi bật của công nghệ là giá trị kiến
thức “phần mềm” chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị của công nghệ và người bán công nghệ
không bị mất giá trị đã chuyển sang người mua và nếu người mua không thanh toán tiền thì
người bán cũng không thể lấy lại kiến thức. Do đó, công nghệ không thể thực hiện theo kênh
mua bán hàng hóa thông thường được mà phải thực hiện theo kiểu chuyển giao.
1.2 Chuyển giao công nghệ và các hình thức chuyển giao công nghệ
1.2.1 Khái niệm chuyển giao công nghệ
- Theo tổ chức ESCAP

1.3.1 Lợi ích và hạn chế đối với bên thực hiện CGCN
1.3.1.1 Lợi ích đối với bên thực hiện CGCN
- Cải tiến và hoàn thiện công nghệ chuyển giao nhằm làm cho nó thích ứng với môi
trường kinh doanh cụ thể
- Cho phép bên CGCN có thêm lợi nhuận mà không cần tổ chức sản xuất: nhờ thu tiền
kỳ vụ từ bên tiếp nhận công nghệ trả.
- Tiếp nhận nhanh chóng các thị trường mới ở nước ngoài thông qua CGCN.
- Chuyển giao công nghệ thông qua liên doanh đầu tư ở nước ngoài tạo điều kiện cho
bên CGCN sử dụng nguồn lao động với giá rẻ giúp giảm chi phí sản xuất.
- Cho phép sử dụng tài nguyên và các lợi thế so sánh khác của nước tiếp nhận đầu tư.
- Thông qua CGCN bên chuyển giao có thể tạo thêm những ràng buộc về kinh tế đối với
bên tiếp nhận công nghệ có lợi cho mình
- Qua CGCN bên chuyển giao tạo mối quan hệ gắn kết mang tính cộng sinh với bên tiếp
nhận công nghệ.
1.3.1.2 Những hạn chế (thiệt hại) đối với bên thực hiện CGCN
- Tạo thêm đối thủ cạnh tranh khi công nghệ chuyển giao bị phát tán, đặc biệt khi bên
tiếp nhận công nghệ lại tiếp tục chuyển giao cho bến thứ ba
- Bên CGCN bị cách ly đối với khách hàng: CGCN ra nước ngoài làm cho bên CGCN ít
tiếp cận trực tiếp với khách hàng ở nước nhập khẩu hơn trong khi việc tiếp cận này đối với
khách hàng sử dụng sản phẩm là rất cần thiết.
- Bên CGCN giảm bớt sự kiểm soát đối với sự phát triển thị trường của sản phẩm
- Bên CGCN có thể bị mất các chuyên gia giỏi
- Bên CGCN có thể bị đối tác vi phạm hợp đồng CGCN
1.3.2 Lợi ích và hạn chế đối với bên tiếp nhận công nghệ
1.3.2.1 Những lợi ích đối với bên tiếp nhận công nghệ:
- Giảm thiểu chi phí cho việc nghiên cứu và triển khai công nghệ
8
- Giúp cho bên tiếp nhận công nghệ cải thiện nâng cấp về trình độ khoa học kỹ thuật và
công nghệ nhờ đó làm cho sản phẩm mang tính ưu việt hơn, mang khả năng cạnh tranh cao
hơn.

động của doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, việc dịch chuyển lao động có những ảnh
hưởng tiêu cực khi các doanh nghiệp FDI thu hút được người lao động tốt nhất ở địa phương.
Theo Le và Pomfret thì có sự tác động tiêu cực của hiệu ứng lan tỏa theo chiều ngang đối với
9
năng suất lao động. Theo Báo cáo “Trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp - bằng chứng qua điều tra doanh nghiệp 2010” của Nhóm nghiên cứu kinh tế (DERG)
trường đại học Copenhaghen và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (CIEM) , thì
hiệu ứng lan tỏa công nghệ theo chiều ngang chưa có sự phân định rõ ràng. Việc xuất hiệu
hiệu ứng tiêu cực do các doanh nghiệp FDI thu hút lao động chất lượng cao của các doanh
nghiệp trong nước có thể dẫn đến áp lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp trong nước phải
sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có hoặc chuyển sang công nghệ mới.
Tác động lan tỏa theo chiều dọc là các hiệu ứng lan tỏa công nghệ tiềm năng xuất hiện
giữa các nhà cung cấp và khách hàng. Có 2 loại liên kết dọc: (1) Các liên kết ngược là các
hiệu ứng lan tỏa công nghệ giữa các nhà cung cấp đầu vào trung gian trong nước và các doanh
nghiệp FDI; (2) Các liên kết xuôi là các hiệu ứng lan tỏa công nghệ giữa các khách hàng của
các đầu vào trung gian trong nước và các doanh nghiệp FDI tại địa phương.
Những liên kết này thể hiện lợi ích tiềm năng mà doanh nghiệp trong nước có thể thu
được trong mối quan hệ với doanh nghiệp nước ngoài thông qua đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam.
1.4 Vai trò của TNCs đối với hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ
1.4.1. TNCs là chủ thể chính trong phát triển công nghệ thế giới
Trong chiến lược cạnh tranh, các công ty xuyên quốc gia luôn coi công nghệ là yếu tố
quan trọng, giữ vị trí hàng đầu. Do đó, thúc đẩy đổi mới công nghệ bằng hoạt động Nghiên
cứu và phát triển (R&D) là nhiệm vụ sống còn của các công ty. Đi đầu trong đổi mới công
nghệ đồng nghĩa với nâng cao năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và giữ vị trí độc
quyền.
Ngày nay, nhận thức của các TNCs về khoa học công nghệ đã chuyển biến. Nếu như
trước đây, các TNCs thường đầu tư lớn cho các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu để các
cơ sở này tạo ra các phát minh sáng chế này. Tại các TNCs đang diễn ra quá trình quốc tế
hoát hoạt động R&D một cách mạnh mẽ. Công nghệ mới ra đời không chỉ từ các phòng thí

đầu tư cho R&D. Các quốc gia như Mỹ và Nhật Bản đầu tư cho hoạt động R&D 3% GDP,
Đức và Pháp là 2,3% ; Singapore là 1,1%. Mức đầu tư bình quân đầu người cho R&D cao
nhất là Nhật Bản (1.200USD), Mỹ (680USD), Đức (625USD), Pháp (575USD), Singapore
(262 USD). Hàn Quốc là quốc gia theo đuổi chiến lược công nghệ cao và đặt mục tiêu đến
năm 2010 trở thành 1 trong 10 nước đứng đầu về khoa học công nghệ [Nguồn: Bộ Công
nghiệp (2005), Báo cáo chiến lược chính sách công nghiệp, Hà Nội.],
[ />
].
Trong các ngành hưởng lợi từ các hoạt động R&D thì ngành công nghệ thông tin đứng
hàng đầu. Mức đầu tư cho công nghệ thông tin của Mỹ hàng năm là 8% GDP, Nhật Bản là
7%, Hàn Quốc 6%, Pháp và Đức là 4% [nguồn:
/>
].
Các TNCs không chỉ đầu tư cho hoạt động R&D bằng chính sức lực của mình mà
chúng còn nhận được sự hỗ trợ về nhiều mặt từ chính phủ của các nước tư bản. Ví dụ chính
phủ Nhật Bản giúp 6 công ty lớn là Fujisu, Hitachi, Mitshubishi, Kinzonku, Nihondenki
và Toshiba cùng nghiên cứu kỹ thuật siêu mạch. Trong khuôn khổ chiến lược phát triển công
nghệ, TNCs cũng thiết lập các mối liên kết với các trung tâm nghiên cứu và viện nghiên cứu.
1.4.2. TNCs với hoạt động chuyển giao công nghệ
TNCs rất đề cao vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo vệ sở hữu trí tuệ liên quan
đến hai vấn đề cơ bản là bảo vệ bản quyền các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa,
quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật và vấn đề giữ được bí mật công nghệ.
Việc đánh mất bí mật công nghệ đồng nghĩa với việc đánh mất giá trị cốt lõi trong chuỗi giá
11
trị tạo nên năng lực cạnh tranh của TNCs. Có rất nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến bảo vệ
sở hữu trí tuệ như Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, Công ước
Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hiệp định Lisbon về bảo hộ đối với tên gọi xuất
xứ và đăng ký quốc tế về xuất xứ,…Đối với các nước đã phê chuẩn các văn kiện pháp lý này
và tuân thủ nghiêm minh các cam kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho TNCs chuyển giao và

hai này cho các nước đang phát triển không chỉ bắt nguồn từ chiến lược của TNCs trong việc
khai thác lợi ích của công nghệ mà còn vì các công nghệ đó phù hợp với khả năng tài chính và
trình độ của các nước này. Ngay cả khi các TNCs có công nghệ hiện đại để chuyển giao thì
12
nhiều nước đang phát triển này cũng không có khả năng khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Hơn nưa, do mặt bằng công nghệ của các đối thủ cạnh tranh tại các quốc gia này chưa cao
nên cũng không đòi hỏi công nghệ hàng đầu.
Trong chính sách này, ngay cả khi công nghệ đã hao mòn vô hình, không còn mới nữa
thì TNCs vẫn duy trì chính sách chuyển giao cầm chừng nhằm duy trì sự phụ thuộc củ đối tác
và giữ quyền kiểm soát đối với công nghệ.Với chính sách đó, TNCs chỉ chuyển giao từng
phần một và luôn giữ lại những yếu tố quan trọng nhất trong dây truyền công nghệ như những
bí quyết cơ bản để khống chế nước chủ nhà. Ví dụ các TNCs Nhật Bản thường chuyển giao
những công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu sang các nước NICs. Do đó, dù các
doanh nghiệp của các nước NIC không thể phát triển vượt xa các TNCs của Nhật Bản và giúp
cho nước này luôn giữ vị trí là “con nhạn đầu đàn” trong mô hình “đàn nhạn bay ” ở Châu Á.
1.4.2.2. Các kênh chuyển giao công nghệ:
Các TNCs thường chuyển giao công nghệ qua các kênh chính sau:
Đầu tư trực tiếp: FDI chính là công cụ quan trọng nhất phục vụ cho hoạt động chuyển
giao công nghệ bởi nó cho phép các TNCs thực hiện chuyển giao công nghệ ở mọi cấp độ một
cách hiệu quả nhất mà vẫn đảm bảo được quyền kiểm soát công nghệ. Chuyển giao công nghệ
thông qua việc xây dựng các công ty liên doanh với nước ngoài là một trong những phương
thức tồn tại của TNCs.
Đầu tư phi cổ phần: Các hình thức như cấp phép, hoạt động quản lý và marketing…
cho phép TNCs khai thác công nghệ mà không cần phải tham gia trực tiếp vào hoạt động sản
xuất đồng thời bên nhận công nghệ có được công nghệ mà không ảnh hưởng đến quyền điều
hành hoạt động sản xuất. Đây là hình thức chuyển giao công nghệ phổ biến tại các nước đang
phát triển tại Châu Ávà Mỹ La Tinh. Đặc biệt là từ những năm 80 trở lại đây khi các nước này
thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư.
Liên minh liên kết: Ngày nay, do chi phí và lợi ích từ việc trao đổi song phương giữa
các TNCs nên các TNCs thường liên kết với nhau trong hoạt động nghiên cứu và phát triển

tế thế giới. Các hoạt động phát triển công nghệ được thực hiện thông qua việc thành lập các
cơ sở nghiên cứu trong nước, khai thác các tác động ngoại ứng tích cực, hoạt động đào tạo và
phổ biến công nghệ. Hoạt động này còn được thực hiện ở hình thức chuyển giao công nghệ
sẵn có từ bên ngoài vào.
TNCs có khả năng to lớn trong việc tổ chức các hoạt động R&D và các chủ thể chiếm tỷ
trọng lớn trong việc đưa ra các sáng chế và phát minh về công nghệ. Đồng thời TNCs còn là
tác nhân đóng vai trò lớn trong việc cung cấp các dịch vụ về đào tạo và cung cấp công nghệ.
- Xét về khả năng R&D, TNCs có tiềm năng lớn trong hoạt động này do lượng vốn đầu
tư lớn, đội ngũ các nhà khoa học hùng hậu, các cơ sở nghiên cứu đạt trình độ hàng đầu thế
giới và khả năng cạnh tranh cao trong các hoạt động R&D.
- Xét về tỷ trọng sáng chế của TNCs/tổng công nghệ mới thế giới, TNCs chiếm tới 80%
tổng công nghệ mới toàn thế giới và quyết định đến chiến lược phát triển công nghệ của toàn
thế giới.
- Xét về hoạt động đào tạo và phổ biến công nghệ, TNCs là những tác nhân đi đầu trong
hoạt động này thông qua việc tổ chức các khóa huấn luyện và đào tạo các cán bộ về công
nghệ. Đây là kênh phổ biến công nghệ có hiệu quả của TNCs làm cho công nghệ nhanh chóng
được ứng dụng rộng rãi.
14
Ngoài ra, TNCs còn là tác nhân thúc đẩy quá trình phát triển công nghệ ở các nước đang
phát triển. Hoạt động phát triển công nghệ của TNCs thường được thực hiện theo ba hình thức
cơ bản là phát triển công nghệ trong từng chi nhánh của TNCs, phát triển công nghệ trong
TNCs có liên hệ với các công ty bản địa và tác động của TNCs đến bộ phận phát triển công
nghệ của các công ty có liên quan theo cơ chế lan truyền này.
1.5. Các chính sách khuyến khích TNCs chuyển giao công nghệ
Các công nghệ cứng và mềm được chuyển giao từ các công ty đa quốc gia đóng góp vào
cơ sở tri thức của nước chủ nhà và do đó ảnh hưởng đến năng suất, cơ cấu kinh tế và tăng
trưởng dài hạn của nó. Trong khi không thể xây dựng một biện pháp duy nhất mà sẽ hoàn
thiện tất cả các tác động trực tiếp và gián tiếp của doanh nghiệp đa quốc gia trên bất kỳ nước
chủ nhà nào, một số dấu hiệu cho thấy các hiệu ứng có thể được đo bằng cách nhìn vào tác
động của FDI qua năng suất.

Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư Liên tịch số 120/2014/TTLT-
BTC-BKHCN về hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia.Theo
đó, nguồn vốn của Quỹ được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động sau:
- Tài trợ cho các dự án nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, công nghệ
cao của doanh nghiệp; sản xuất thử nghiệm sản phẩm mới; chuyển giao, hoàn thiện, sáng tạo
công nghệ để sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia;
- Tài trợ dự án ươm tạo công nghệ;
- Tài trợ các đề tài nghiên cứu lập dự án nghiên cứu tiền khả thi, dự án khả thi cho tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân; đề tài nghiên cứu về tìm kiếm, giải mã công nghệ, khai thác sáng chế,
cải tiến kỹ thuật cho phát triển công nghệ mới, công nghệ tiên tiến;
- Tài trợ dự án nhân rộng, phổ biến, giới thiệu và chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản ở khu vực nông thôn, miền
núi;
- Tài trợ dự án đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ việc chuyển giao, ứng dụng
công nghệ cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn phải kể đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp để đầu tư đổi mới và
chuyển giao công nghệ: Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam được
trích tối đa 10% thu nhập tính thuế để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của mình
(Điều 17, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp).
Bên cạnh các ưu đãi thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp theo Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013 cho phép doanh nghiệp
sử dụng vốn tự có để đầu tư vào khoa học và công nghệ có thể được giảm tới 10% thuế thu
nhập và được khấu hao nhanh đối với trang thiết bị hình thành từ đầu tư công nghệ.
Chương trình tìm kiếm và chuyển giao công nghệ nước ngoài đến năm 2020 mới ban
hành năm 2014 còn hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp một phần chi phí xây dựng thuyết minh
dự án và một phần kinh phí thực hiện đối với dự án chuyển giao công nghệ có tính khả thi.
Ngoài ra, Chương trình này còn ưu tiên hỗ trợ một số nội dung chính của dự án chuyển giao
công nghệ như huấn luyện chuyên sâu, tham quan khảo sát, nghiên cứu công nghệ;làm vật
mẫu (prototype), thử nghiệm, kiểm tra, kiểm định chất lượng, sản xuất ở quy mô thử nghiệm
tại Việt Nam; thuê chuyên gia tư vấn, đào tạo và chuyển giao công nghệ; tổ chức hội thảo

Bảng 1.1 Tóm tắt một số ưu đãi đối với doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ
Loại thuế Ưu đãi Văn bản
Thuế giá trị gia
tăng
Máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải chuyên
phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng chuyển giao
công nghệ không chịu thuế giá trị gia tăng.
Mục 3, Điều 44,
Luật chuyển giao
công nghệ
Luật thuế doanh
nghiệp
Doanh nghiệp sử dụng vốn tự có để đầu tư vào một
số lĩnh vực có thể được giảm tới 10% thuế thu nhập
cho các đầu tư về khoa học và công nghệ
Thuế xuất nhập
khẩu
Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để
sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu phát triển
công nghệ
Mục 2, Điều 44,
Luật chuyển giao
công nghệ
Thuế thu nhập
doanh nghiệp
Thu nhập từ hoạt động chuyển giao công nghệ đối
với các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư được miễn
thuế thu nhập
Điều 33, Luật
Đầu tư năm 2005


đ
ãi
khác
Bên cạnh những ưu đãi về tài chính và thuế, nhà nước đã sử dụng Luật Đầu tư để tạo ra
môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu những công nghệ có khả năng lan tỏa sang
các doanh nghiệp khác.
Một phần danh sách ưu đãi trong luật bao gồm:
- Ưu đãi sử dụng đất: Nhà đầu tư trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu
tư được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất theo quy
định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế (Điều 36).
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Cam kết bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư
(Điều 7).
17
Doanh nghiệp bắt đầu hoạt động trong các đặc khu kinh tế được hưởng thêm các ưu đãi thuế
(Điều 10, Nghị định 06/2000/NĐ-CP ban hành ngày 06/03/2000 trực tiếp thúc đẩy hợp tác
đầu tư với nước ngoài trong các hoạt động khám chữa bệnh, giáo dục, đào tạo và nghiên cứu
khoa học. Theo Nghị định này, các doanh nghiệp nghiên cứu có vốn đầu tư nước ngoài được
hưởng các ưu đãi sau:
- Mức thuế thu nhập 10% trong suốt thời gian hoạt động
- Miễn thuế thu nhập trong 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm thuế thu
nhập 50% trong 4 năm tiếp theo.
- Được hoàn lại 100% số thuế thu nhập đã nộp cho phần lợi nhuận đầu tư tái đầu
tư mở rộng hoạt động
- Hướng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5%
- Hướng mức tiền thu đất thấp nhất theo quy định hiện hành
- Bảo đảm cân đối ngoại tệ bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Bảng 3.3: Số các công ty chi nhánh TNCs tổ chức các khóa đào tạo ở các nước đang phát
triểnđộng phát triển công nghệ của TNCs thường được thực hiện theo ba hình thức cơ bản là

cho phép TNCs khai thác công nghệ mà không cần phải tham gia trực tiếp vào hoạt động
sản xuất đồng thời bên nhận công nghệ có được công nghệ mà không ảnh hưởng đến quyền
điều hành hoạt động sản xuất.
- Hợp đồng nhập khẩu công nghệ (licensing agreement).
- Nhập khẩu hàng hoá tư bản (capital goods) như máy móc, thiết bị toàn bộ kiểu chìa
khoá trao tay ; cử chuyên gia, cán bộ kỹ thuật ra nước ngoài để tiếp thu công nghệ; mời các
chuyên gia và cán bộ kỹ thuật nước ngoài vào.
Trong các kênh trên, về số lượng công nghệ thì kênh thứ tư chiếm vị trí lớn. Tuy nhiên,
đầu tư trực tiếp nước ngoài là kênh thu hút kỹ thuật nước ngoài quan trọng hơn cả nếu xét về
mặt chính sách, chiến lược cũng như hiệu quả kinh tế trực tiếp.
2.1.2. Hình thức chuyển giao công nghệ
Những công nghệ hạng hai không còn mới, không còn đem lại lợi thế cạnh tranh cho
các TNCs thường được chuyển giao cho các công ty liên doanh hoặc các công ty nằm ngoài
hệ thống TNCs tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Lý do mà các TNCs
chuyển giao công nghệ hạng hai này cho các nước đang phát triển không chỉ bắt nguồn từ
chiến lược của TNCs trong việc khai thác lợi ích của công nghệ mà còn vì các công nghệ đó
phù hợp với khả năng tài chính và trình độ của các nước này. Ngay cả khi các TNCs có
công nghệ hiện đại để chuyển giao thì Việt Nam cũng không có khả năng khai thác hiệu quả
công nghệ đó. Hơn nưa, do mặt bằng công nghệ của các đối thủ cạnh tranh tại Việt Nam
chưa cao nên cũng không đòi hỏi công nghệ hàng đầu.
Trong chính sách này, ngay cả khi công nghệ đã hao mòn vô hình, không còn mới
nữa thì TNCs vẫn duy trì chính sách chuyển giao cầm chừng nhằm duy trì sự phụ thuộc của
đối tác và giữ quyền kiểm soát đối với công nghệ.Với chính sách đó, TNCs chỉ chuyển giao
từng phần một và luôn giữ lại những yếu tố quan trọng nhất trong dây truyền công nghệ như
những bí quyết cơ bản để khống chế nước chủ nhà.
2.1.3. Thực trạng chuyển giao công nghệ
Theo mức độ thống kê được cho thấy các TNCs còn rất dè dặt khi đầu tư vào
Việt Nam. Thật vậy, phần lớn các TNCs đến Việt Nam có nguồn gốc châu Á. Các TNCs lớn
có nguồn gốc từ Mỹ và Châu Âu rất ít. Chỉ đạt khoảng 47% về vốn và 36% về số dự án đầu
tư. Trong 500 TNCs hàng đầu thế giới chỉ có 106 TNCs có mặt tại Việt Nam trong khi con

lớn vẫn kiên trì chờ đợi và tính đến khả năng thu nhập của người dân Việt Nam trong thập kỷ
tới. Lực lượng các tập đoàn xuyên quốc gia lớn hiện diện, theo đó rõ ràng đã góp phần làm
chậm lại tình trạng đầu tư nước ngoài giảm sút ở Việt Nam hiện nay.
Về tổng thể, liên kết giữa các TNCs và các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị
còn yếu kém. Cụ thể, khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp khác tại Việt Nam phổ biến
hình thức liên kết ngang, với mục đích chủ yếu là tìm cách tăng tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm
thông qua việc gia công các linh kiện, phụ kiện bởi các doanh nghiệp Việt Nam. Đa phần các
liên kết này để sản xuất các linh kiện, phụ kiện đơn giản, các doanh nghiệp trong nước chưa
21
tạo được liên kết lâu dài với các doanh nghiệp FDI do chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật
công nghệ cũng như các yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm.
Khảo sát của Viện Chiến lược và Chính sách công nghiệp Bộ Công thương năm 2010
cũng cho thấy rõ hơn bức tranh mờ nhạt về liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước
vào mạng sản xuất toàn cầu của các TNC vào Việt Nam, khi chưa có tới 30% các TNC liên
kết với các doanh nghiệp nội địa trong việc gia công linh kiện, chỉ 21,4% là mua đứt bán đoạn
các linh kiện đầu vào. Do không tìm được đủ các nhà cung cấp linh phụ kiện, nguyên liệu đầu
vào từ các doanh nghiệp nội địa, các doanh nghiệp FDI sử dụng 2 nguồn cung cấp chính đó là
nhập khẩu và từ các doanh nghiệp FDI khác. Điều này xuất phát từ đặc điểm các doanh
nghiệp FDI tại Việt Nam chủ yếu tận dụng lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên của Việt Nam
và chủ yếu họ nhập khẩu đầu vào sản xuất chế biến rồi xuất khẩu.
Trong ngành công nghiệp ở Việt Nam, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, các
doanh nghiệp Việt Nam tương đối lệ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng ngược
lại các doanh nghiệp nước ngoài ít phụ thuộc vào doanh nghiệp trong nước. Điều này thể hiện
các doanh nghiệp Việt Nam ít có cơ hội để trở thành một đối tác cung ứng cho doanh nghiệp
nước ngoài. Đây là một điều rất cần thiết để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thông qua các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường và tiếp cận công nghệ mới.
Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và đặc biệt là các quan hệ giữa các doanh nghiệp
FDI và doanh nghiệp trong nước cũng là các quan hệ tương đối đơn giản về cấp độ. Tỉ lệ
doanh nghiệp FDI có sử dụng nhà cung ứng thứ cấp để thực hiện các hợp đồng sản xuất
không nhiều. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu là các quan hệ mua bán sản

khoan và khai thác, vận chuyển bằng đường ống, đặc biệt là khoan định hướng, khoan ngang
và khoan thứ cấp, tam cấp trong tất cả các loại mỏ, nhất là mỏ nhỏ, mỏ ở vùng nước cực sâu
với năng suất cao và hệ số thu hồi dầu khí cực đại.
Chế biến dầu khí
Ứng dụng công nghệ hoá dầu và khí đốt để khai thác tối đa giá trị của dầu mỏ, khí đốt
phục vụ cho tất cả các ngành kinh tế và phục vụ dân sinh. Việc ứng dụng những công nghệ
hiện đại trong khai thác và chế biến đã đem lại cho Việt Nam hàng chục triệu dầu thô và hàng
tỷ tấn doanh thu mỗi năm. Đó là chưa kể đến các sản phẩm phụ như khí đồng hành, condensat
và LPG rất có ích đối với ngành sản xuất hóa chất, điện, sứ, thủy tinh, xi măng trắng, vật liệu
xây dựng,
2.1.4.2. Lĩnh vực viễn thông
Trong các dự án đầu tư ở lĩnh vực viễn thông, có đến 94% số dự án đầu tư theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án theo hình thức liên
doanh để sản xuất các thiết bị vật tư điện. Đặc biệt, đây là hình thức không có dự án đầu tư
theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Ngành Bưu chính Viễn thông là ngành được đánh giá thực hiện việc chuyển giao công
nghệ nhanh và chất lượng tốt nhất trong các ngành mà công nghệ được chuyển vào Việt Nam.
Một loạt các công ty nước ngoài đã tham gia chuyển giao công nghệ vào lĩnh vực này như
liên doanh Goldstar (Hàn Quốc), Fvarcetelecom (Pháp), NEC (Nhật), Motorola (Mỹ), Alcatel
(Pháp), Sremens (Đức), Samsung LGIC (Hàn Quốc) đã và đang được triển khai tốt. Đặc biệt
23
là sự hợp tác liên doanh giữa công ty thông tin di động Việt Nam (VWS) và hai công ty
Industri for Waltnius AB Kinnevi và Comvil của Thuỵ Điển với tổng đầu tư là 341,5 triệu
USD.
2.1.4.3. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy
Đây cũng là một trong những lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư thuộc các hãng
lớn mà sản phẩm của họ đã trở thành nổi tiếng và có lợi thế cạnh tranh với các sản phẩm cùng
loại trên thế giới như: Toyota, Ford, Honda, Suzuki Một đặc điểm tương đối nổi bật nữa của
các dự án đầu tư sản xuất ô tô, xe máy là bên cạnh hoạt động các hoạt động của chính bản
thân thì các dự án này có tác động đến việc hình thành các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng

bộ nhớ nhiều chương trình cắt, chặt, do vậy tiết kiệm ít nhất 10% nguyên liệu. Ứng dụng
CAD cho công tác tạo mẫu. áp dụng hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu PDM (Product Data
Management) là giải pháp tinh giản biên chế gián tiếp nhanh gấp 5 lần mức tác nghiệp thủ
công; số liệu sản xuất kinh doanh được phản ánh nhanh, rõ ràng, chính xác; các công nhân
viên ở các bộ phận khác nhau gắn kết trong một “thư viện thông tin về kế hoạch – kỹ thuật –
sản xuất – tài chính của doanh nghiệp. Nhờ đó, sản phẩm của các doanh nghiệp FDI thường là
cao cấp với chất lượng hơn hẳn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Phần lớn
sản phẩm được sản xuất ra (khoảng 90%) dùng để xuất khẩu.
25

Trích đoạn GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÁC TNC CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀO VIỆT NAM
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status