Tiểu Luận: Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Huy Động Vốn Của Nhtm. Giải Pháp Gia Tăng Nguồn Vốn Huy Động - Pdf 26



Tiểu luận Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn
của NHTM. Giải pháp gia tăng nguồn vốn huy động
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn NHTM:
- Môi trường vĩ mô: Chỉ số giá cả, tốc độ tăng trưởng kinh tế, chính sách của Nhà
Nước đối với các NHTM cũng gây nên những ảnh hưởng lớn đối với việc huy động
vốn của NHTM.
- Khách hàng: Việc huy động vốn của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào thu nhập của
khách hàng, tập quán tiêu dùng và độ tin cậy của khách hàng vào ngân hàng.
- Bên trọng: Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có chất lượng tốt, phong phú, thuận tiện cho
khách hàng và lãi suất, cơ sở hạ tầng của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến việc huy
động vốn.
2. Giải pháp gia tăng nguồn vốn huy động:
a. Đối với môi trường vĩ mô:
- Một là, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự tăng trưởng của hoạt động
NHTM , đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật NH phù hợp với
các cam kết khi hội nhập.
- Hai là, Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát NHTM . Nâng cao chất

phẩm nào được xem là sản phẩm huy động vốn chủ lực?
Trả lời
1. Các sản phẩm huy động vốn của NHTM:
a. Nguồn vốn huy động:
- Tiền gửi thanh toán:
Tiền gửi thanh t oán (TGTT) là loại hình tiền gửi được sử dụng với mục đích chủ yếu
là thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán
nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh nhất của khách hàng. Đối tượng khách hàng là
doanh nghiệp và cá nhân. TGTT có 2 loại: TGTT không kỳ hạn và TGTT có kỳ hạn.
Với TGTT không kỳ hạn chủ tài khoản có thể rút tiền bất cứ lúc nào để thanh toán.
Lãi suất của TGTT không kỳ hạn thường rất thấp. Để sử dụng các dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt qua ngân hàng, các khách hàng phải mở tài khoản TGTT tại ngân
hàng và có số dư nhất định để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu chi t iêu của mình. Như vậy, xét
về bản chất, khi mở và gửi tiền vào tài khoản này, mục tiêu của khách hàng không phải
là tìm kiếm các khoản lãi từ số dư tài khoản.
TGTT có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà đối tượng chủ yếu là các doanh nghiệp gửi có kỳ
hạn, về tính chất hoạt động thì giống tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng về mục đích và
đối tượng gửi cũng khác nhau. TGTT có kỳ hạn có lãi suất cao hơn TGTT không kỳ hạn
vì ngân hàng sẽ chủ động được nguồn vốn. TGTT có kỳ hạn khi chủ tài khoản dự tính
được thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà trong tương lai sẽ phải thanh toán. Ví dụ một
chủ doanh nghiệp có thể mở tài khoản thanh toán có kỳ hạn 3 tháng tại ngân hàng khi
anh ta dự tính được rằng 3 tháng sau mình sẽ phải trả nợ một khoản tiền cho người bán.
Ưu điểm của tài khoản này là vừa dùng để thanh toán, vừa có thể hưởng lãi suất, trong
khi tài khoản thanh toán không kỳ hạn thì lãi suất rất thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm,
được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi
tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm t iền gửi.
Hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là thẻ t iết kiệm hoặc sổ tiết kiệm. Là loại tiết
kiệm người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra,

+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức t iết kiệm trung và dài hạn,
người tham gia ngoài việc được trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục
đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
- Phát hành chứng từ có giá:
Giấy tờ có giá là chứng nhận của ngân hàng phát hành để huy động vốn trong đó xác
nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và
các điều khoản cam kết khác giữa ngân hàng và khách hàng.
Căn cứ vào thời hạn, giấy tờ có giá được chia thành hai loại:
+ Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm bao gồm kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy t ờ có giá dài hạn khác.
Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá của NHTM được thực hiện tập trung theo
từng đợt, phục vụ nhu cầu vốn theo mục tiêu của ngân hàng, ổn định hơn so với nguồn
vốn huy động dưới các hình thức tiền gửi. Tuy nhiên hình thức huy động vốn này
thường có lãi suất và chi phí phát hành cao. Ngoài ra, việc phát hành giấy tờ có giá dài
hạn phải được sự chấp thuận của Thống đốc N gân hàng Nhà nước căn cứ trên các điều
kiện về thời gian hoạt động, lợi nhuận và phương án sử dụng vốn thu được từ phát hành
giấy tờ có giá dài hạn.
b. Nguồn vốn vay:
Các ngân hàng thương mại có thể vay vốn từ ngân hàng trung ương, các ngân hàng
thương mại hoặc các trung gian tài chính khác và vay từ công chúng, dưới các hình thức
vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác. Hoạt động vay mượn này nhằm
mục đích điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuy ển thông suốt
liên tục trong hệ thống ngân hàng.
- Vay ngân hàng nhà nước dưới hình thức chiết khấu các chứng từ có giá, cầm cố, tái
cầm cố các thương phiếu.
- Vay lại theo hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua lại.
- Vay qua thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng
trong thời gian ngắn, ngân hàng có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ các ngân

huy động vốn nói riêng và hoạt động NHTM nói chung. Ví dụng, sau khi có Chỉ thỉ 02
năm 2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), với việc xử lý nghiêm các
Ngân hàng vi phạm trần lãi suất huy động vốn, hầu hết các tổ chức tín dụng (TCTD) đã
nghiêm túc chấp hành, thực hiện đúng mức trần lãi suất huy động, hiện tượng chạy đua
lãi suất của các ngân hàng, khách hàng mặc cả lãi suất với ngân hàng trước đây, nhìn
chung đã giảm đáng kể, thị trường tiền tệ lập lại kỷ cương.
Mạng lưới hoạt động của các NHTM mở rộng khắp các tỉnh, thành phố đã tạo thuận
lợi cho các cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư tiếp cận với
dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện NHTM tiếp cận nguồn vốn huy động chủ lực.
Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thông tin truyền thông, cùng với nỗ lực của ngân
hàng trong việc tiếp thị sản phẩm huy động, người dân và các tổ chức kinh tế có hiểu
biết đến ngân hàng nhiều hơn, niềm tin và sự y ên tâm của công chúng khi gửi tiền và
giao dịch với ngân hàng gia tăng đáng kể.
B.Khó khăn:
1. Môi trường vĩ mô:
- Chính sách nhà nước đối với các NHTM và các hoạt động kinh tế
- Yếu tố lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tính bất ổn của nền kinh tế trong thời
gian vừa qua.
2. Bên trong ngân hàng:
- Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đầu tư khá cao, tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn trung và
dài hạn lại thấp, mà chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
Về huy động vốn, với trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng hiện nay là nguồn vốn
ngắn hạn, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc quản trị nguồn vốn,
khó bảo đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút ngắn
trong khi kỳ hạn cho vay bình quân dài, t ạo nguy cơ rủi ro kỳ hạn và lãi suất.
Vốn huy động có t ăng lên nhưng chưa khai thác hết được t iềm năng vì nguồn tiền
nhàn rỗi đổ vào thị trường chứng khoán và đầu cơ bất động sản vẫn còn nhiều.
- Mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao nhưng không lành mạnh:
Việc huy động vốn của các NHTM phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác
như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ

phần tiền gửi, trong đó riêng các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 70%. Phần các
ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm khoảng dưới 10% thị phần.
Nhưng đây không phải là lợi thế trước tiến trình hội nhập và mở cửa cho các ngân
hàng nước ngoài vào hoạt động; mà chỉ là kết quả tất yếu của sự bảo hộ trong suốt thời
gian qua đối với các ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt là các ngân hàng thương
mại nhà nước so với các ngân hàng nước ngoài về đối tượng khách hàng, số lượng và
loại hình tiền tệ được phép huy động và mạng lưới hoạt động.
3. Phía khách hàng:
- Thu nhập của người dân còn thấp, lượng tiền tích lũy chưa cao.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao trong nhiều năm nhưng thu
nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và tích lũy trong dân cư tuy
đã tăng nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết
kiệm.
- Dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết kiệm.
Người dân e ngại gửi tiền đồng dài hạn vào hệ thống ngân hàng do sợ ảnh hưởng của
biến động lãi suất và lạm phát, dẫn đến việc người dân chuyển sang kênh đầu tư khác an
toàn hơn như đầu tư vào bất động sản, hoặc tích trữ dưới dạng USD và vàng.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status