luận văn công nghệ sinh học Nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống cây hoa cúc CN01 (Standard chrysanthemum) bằng phương pháp nuôi cấy in vitro - Pdf 27

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
BAP : 6-benzyl amino purin
IAA : β-indole-acetic acid
IBA : Indode-3-butyric acid
Kin : Kinetin (6 fulfury amino purin)
α-NAA : α-Napthalene acelic acid
H
2
O
2
: Hydro peroxide (nước ôxy già)
HgCl
2
: Thủy ngân Clorua
ND : Nước dừa
Agar : Thạch
MS : Muashige and Skoog, 1962
AI : Activiti ingrendient (hoạt chất)
NS : Non-signficant (sai khác không có y nghĩa)
LSD
0.05
: Giới hạn nhỏ nhất sai khác có y nghĩa khi
so sánh ở xác suất 95%
LSD
0.01
: Giới hạn nhỏ nhất sai khác có y nghĩa khi
so sánh ở xác suất 95%
CV% : Hệ số biến động
1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

vào mùa vụ mà thời tiết không thuận lợi, sâu bệnh nhiều… Việc nhân
giống bằng phương pháp dâm cành vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất: về chất lượng giống: các giống hoa Cúc hiện có ở Việt Nam
tuy được nhập nội và trồng chưa lâu nhưng bước đầu tiên đã giảm chất
lượng do sâu bệnh, do nhân giống và tính không được định kỳ phục trúng
3
giống. Hiện tượng này làm giảm chất lượng sản phẩm như: bông không to,
cành ngắn nhỏ… Vì vậy chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Thứ hai: Về kỹ thuật nhân giống, cây hoa Cúc nước Ta chủ yếu được
nhân giống bằng phương pháp dâm cành nên hệ số nhân giống chưa cao,
cây không sạch bệnh. Hơn nữa phương pháp nhân giống này còn phụ
thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu … gây khó khăn cho việc nhân
giống trên đồng ruộng. Ngoài ra trong công cuộc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng theo hướng sản xuất sản phẩm nông nghiệp hàng hóa có giá trị cao,
việc phát triển hoa nói chung và hoa Cúc nói riêng phục vụ tiêu dùng và
xuất khẩu đang có sự bùng phát như vậy việc nghiên cứu nhân giống
nhanh là việc rất cần thiết.
Với kỹ thuật nhân giống vô tính bằng phương pháp nuôi cấy in
vitro tỏ ra ưu việt. Có thể tạo được cây con sạch bệnh, đồng nhất về việc
duy truyền với số lượng lớn trong thời gian ngắn, đáp ứng được nhu cầu
cho thực tiễn sản xuất, chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
''Nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống cây hoa cúc CN01
(Standard chrysanthemum) bằng phương pháp nuôi cấy in vitro''.
2. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU.
2.1. Mục đích.
Xây dựng quy trình nhân giống in vitro cây hoa cúc CN01 để phần đáp
ứng thực tiễn sản xuất hoa cúc hiện nay.
2.2. Yêu cầu.
- Nghiên cứu các phương pháp khử trùng cho các vật liệu đưa vào nuôi cấy.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất điều tiết sinh trưởng đến việc nhân

Ấn Độ, tím hoa cà.
- Giống mới nhập nội gồm có: CN93, CN97, CN98, tím hè, vàng Đài Loan,
tím xoáy, tím Hà Lan, đỏ tiết dê, tím sen, và tập đoàn cúc chi có nguồn
gốc từ Hà Lan gồm rất nhiều giống khác nhau [ l 3].
6
l.2. Giá trị kinh tế của cây hoa cúc.
Cúc là một lại hoa đẹp thường được dùng trong các ngày lễ, tết, cưới
xin và được sử dụng với nhiều cách như trồng đại trà để cắt hoa cắm bình,
trồng trong bồn, trang trí trong nhà, trong vườn hoa và công viên.
Sản xuất và kinh doanh hoa cúc đã đem lại cho người trồng hoa nhiều
lợi nhuận. Trên mỗi sào (bắc bộ) đất trồng trọt, với mật độ trung bình: 50
cây/m
2
, người trồng có thể thu được từ 5 - 6 triệu đồng (tính giá trung bình
300đ/bông) và chi phí cho làm đất, chăm sóc, giống và các vật tư khác thì
hết l,8 - 2 triệu đồng. Trong khi đó với cây lúa thu nhập chỉ đạt 350.000 -
400.000 đ/sào [ l4].
Ngoài ra, nếu hoa được đùng xuất khẩu thì lợi nhuận còn lớn hơn
nhiều. Hiện nay, với sự thành công của các biện pháp kỹ thuật như kéo dài
tuổi thọ của hoa, điều khiển hoa ra theo ý muốn, trồng hoa trái vụ hoặc cho nở
vào các dịp lễ tết, đã làm cho giá trị của hoa được tăng lên rất nhiều lần.
Bên cạnh đó, hoa còn được dùng để chế tinh dầu thơm, pha trà, ngâm
rượu, làm thuốc trừ sâu Đối với ngành y dược, một số loại cúc còn có tác
dụng chữa bệnh đau đầu, đau mắt…
1.3. Vài nét về cây hoa cúc CN0l
CN01 là giống cúc đơn (standald Chrysanthemum). ĐÂY là giống
nhập nội của Nhật Bản, được đưa ra từ Trung tâm hoa - cây cảnh - Viện Di
truyền Nông nghiệp tháng 3 năm 2001.
Giống có đặc điểm cây cao (70 - 75 cm), thân mập cứng, lá dài xanh
bóng, bộ lá gọn. Khả năng phân cành ít nên có thể trồng dày 45 – 50 cây/m

vụ cho nhu cầu trong nước.
Hải Phòng, cúc là cây quan trọng thứ hai trong cơ cấu sản xuất hoa
tươi. Cùng với layơn, cúc là một mặt hàng xuất khẩu trong những năm tới.
8
Ở các tỉnh phía Nam như Đà Lạt, Huế là nơi có diện tích trồng cúc lớn
nhất. Đà Lạt là vùng lý tưởng cho nhiều giống cúc sinh trưởng và phát triển.
Có thể nói, so với những năm trước đây sản xuất hoa cúc ở Việt Nam là
đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, lương hoa sản xuất ra thực sự còn rất hạn chế
so với nhu cầu rất cao của thị trường, cũng như tiềm năng kinh tế to lớn mà
cây hoa cúc có thể mang lại nếu được đầu tư phát triển 19].
Ở Việt Nam hiện nay việc nhân giống cây hoa cúc chủ yếu bằng
phương pháp vô tính gồm hai biện pháp:
- Nhân giống bằng giâm cành: Chọn cành bánh tẻ, to khoẻ, không sâu bệnh
làm cành giâm. Cành giâm có chiều dài 6 - 8 cm, có 3 - 4 lá, sau khi giâm
phải che nắng, che mưa, giữ ẩm 70% - 80%.
- Nhân giống bằng nuôi cấy in vitro: Là phương pháp được dùng phổ biến
hiện nay ở các nước trồng cúc, bởi cây cúc dễ nhân trong ống nghiệm, hệ
số nhân cao, giá thành hạ, cây con sạch bệnh. Đặc biệt phương pháp này
có thể duy trì và nhân giống quanh năm, không phụ thuộc vào điều kiện
ngoại cảnh. Từ các mô, các cơ quan khác nhau qua nuôi cấy người ta có
thể tạo ra những cây hoàn chỉnh, hoàn toàn sạch bệnh và đồng nhất về
mặt di truyền [16].
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÂY HOA CÚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VIỆT NAM
Do giá trị kinh tế cũng như giá trị sử dụng của cây hoa rất cao mà trên
thế giới có rất nhiều nước đi sâu nghiên cứu kỹ thuật trồng hoa, kỹ thuật nhân
và tạo giống hoa mới.
2.l. Tình hình nghiên cứu cây hoa cúc ở lĩnh vực nuôi cấy mô tế bào
Năm l974, Asjes và công sự (Hà Lan) đã chứng minh rằng có thể sử
dụng nhiều bộ phận của cây hoa cúc để làm vật liệu nuôi cấy mô. Ông đã ứng

Ngoài ra, việc sử dụng cánh hoa, quả để làm nguyên liệu nuôi cấy tạo
chồi trực tiếp hoặc gián tiếp cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu [32].
Cho đến nay, việc sử dụng chồi đỉnh và chồi nách để làm nguyên liệu
cho nuôi cấy mô vẫn là biện pháp phổ biến nhất bởi vì sử dụng chồi đỉnh và
chồi nách dễ thành công, ít nhiễm bệnh, có hiệu quả cao hơn so với việc sử
dụng các bộ khác của cây hoa cúc để nuôi cấy. Sử dụng phương pháp này,
cho phép tạo một số lượng lớn cây con giống, sạch bệnh đồng nhất về mặt di
10
truyền trong thời gian ngắn, hoàn toàn đáp ứng được cho sản xuất ở quy mô
công nghiệp.
Để hoàn thiện quá trình nuôi cấy mô hoa cúc, các nhà nghiên cứu đã đi
sâu tìm hiểu ảnh hưởng của một số điều kiện và yếu tố môi trường trong
nhân nhanh in vitro như ảnh hưởng của điều kiện nhiệt độ, điều kiện ánh
sáng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu giai đoạn cuối cùng của quá trình vi nhân
giống là giai đoạn đưa cây in vitro ra ngoài đất cũng rất quan trọng. Đây là
bước quyết định hiệu quả của toàn bộ quá trình vi nhân giống vào thực tiễn
sản xuất. Roberts và Smith (1990) đã nghiên cứu bảo vệ rễ bằng chất đệm
cellulose sorbarods trong môi trường nuôi cấy dạng lỏng, làm giảm thiệt hại
trong quá trình đưa cây ra ngoài [35].
2.2. Các nghiên cứu khác về cây hoa cúc.
Ngoài lĩnh vực nuôi cấy in vitro, các nhà khoa học trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu cây hoa cúc ở các lĩnh vực khác như:
Năm 1982, các nhà chọn giống Ấn Độ đã xử lý tia gamma ở liều lượng
từ 0,1-0,5kr ở những cành cúc đã ra rễ và thấy, có thể làm thay đổi hình dạng
hoa. Cũng bằng phương pháp này nhưng xử lý ở liều lượng 2,5 kr ở các đoạn
thân cắt Kawai và đồng sự (1979) đã tạo ra 7 giống Chrysanthemum có màu
sắc khác nhau.
Năm 1995, Florigene là một trong những công ty đầu tiên ở Hà Lan
chuyển những giống cúc màu hồng thành màu trắng do gen
chalconsesynthase khống chế việc tổng hợp sắc tố.

Từ năm l992, Trung tâm Hoa - cây cảnh Viện Di truyền Nông nghiệp
kết hợp với Bộ môn nuôi cấy mô tế bào của Viện đã tiến hành nghiên cứu xây
dựng qui trình nhân giống cây hoa cúc bằng phương pháp nuôi cấy in vitro.
Tiến hành thu thập khảo sát và đánh giá một số giống cúc mới, kết quả là từ
12
2/1993 đến tháng 2/1999, giống cúc CN93 và CN98 đã được Hội đồng khoa
học Bộ Nông nghiệp cho phép khu vực hóa, đến tháng 4/1996 và 9/2000 lần
lược hai giống cúc CN93 và CN98 đã được công nhận là giống cúc quốc gia
[14].
Năm 1988, Nguyễn Quang Thạch và cộng sự đã xây dựng hoàn chỉnh
qui trình nhân giống bằng nuôi cấy mô cho một số giống cúc đang được trồng
phổ biến ở miền Bắc nước ta như cúc CN93, vàng Đài Loan, đỏ Hà Lan [9].
Trung tâm Hoa - cây cảnh của Viện Di truyền Nông nghiệp đã sử dụng
kích phát tố của công ty Thiên Nông với liều lượng 1g thuốc pha trong l lít
nước sạch rồi nhúng phần gốc của cành khoảng 30 phút. Sau đó, đem phần
dung dịch thuốc còn lại pha thêm 5g phân bón lá phun lại lên cành giâm. Cứ
3-5 ngày phun dung dịch này một lần có thể đảm bảo từ 80 - 90% số cây ra rễ
với thời gian rút ngắn so với đối chứng từ 3 - 5 ngày, phương pháp này
thường được áp dụng trong việc nhân giống vào mùa hè cho hiệu quả cao [14]
Theo Nguyễn Quang Thạch và các cộng sự (1998) để nâng cao tỷ lệ
sống và ra rễ của cành giâm trong nhân giống vô tính có thể sử dụng IBA
hoặc α-NAA với nồng độ 1000 ppm bằng cách nhúng phần gốc của cành
khoảng 0,5-1cm vào dung dịch thuốc từ 3-5 giây rồi cắm vào đất hoặc cát [9].
Điều tra về sâu bệnh hại trên cây hoa cúc, các tác giả của Trung tâm
hoa - cây cảnh Viện Di truyền Nông nghiệp đã đề xuất các biện pháp phòng
trừ và xác định trên cúc có 9 loại bệnh hại bao gồm 7 bệnh hại do nấm, 1
bệnh do vi khuẩn và 1 bệnh vàng lá do sinh lý. Những bệnh do nấm gây ra
bao gồm đốm lá, phấn trắng, đốm nâu, gỉ sắt, đốm vòng, héo ngọn, lở cổ rễ và
héo vi khuẩn. Trong đó, gây thiệt hại đáng kể nhất là bệnh đốm lá có thể dùng
Score 250ND, bệnh phấn trắng dùng Daconil 75WP, bệnh đốm vòng, đốm

sinh trưởng thực vật, cũng như các yếu tố nhiệt độ, môi trường, ánh sáng.
3.2.3. Vật liệu nuôi cấy.
Ở cơ thể thực vật đa bào đều có tính toàn năng nghĩa là đều có khả
năng phân hóa tái sinh thành một cây hoàn chỉnh từ một tế bào, mô, cơ quan
trong môi trường dinh dưỡng nhân tạo và môi trường có điều kiện thích hợp.
Do vậy về nguyên tắc bất kỳ một bộ phận nào của cây cũng có thể sử dụng
làm vật liệu nuôi cấy, có thể là cơ thể thực vật nguyên vẹn như cây con, mầm
non, … các mô sẹo, các tế bào đơn, tế bào trần
Tuy nhiên, khả năng này phụ thuộc vào từng loài. Có loài dễ tái sinh từ
mô nuôi cấy như khoai tây, cà chua, thuốc lá có loài rất khó như hoa đồng
tiền, trầm hương Thông thường các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của mô
cũng như các bộ phận khác nhau của cây, khi nuôi cấy sẽ cho những kết quả
khác nhau. Điều đáng chú ý là những mô nuôi cấy có nguồn gốc từ cây in
vitro có khả năng phát sinh, phát triển tốt hơn so với những mô nuôi cấy có
nguồn gốc là những cây ngoài tự nhiên hay trong nhà kính. Điều này đã được
Economau và Read (1986) chứng minh ở cây đỗ quyên, Liu và Sanford
( 1988) chứng minh ở cây dâu tây. Nhìn chung, tất cả các bộ phận như thân,
lá, rễ, cuống lá đều có thể sử dụng để nuôi cấy, nhưng các cơ quan này do
có sự chuyển hoá khác nhau nên quá trình giải mã các thông tin di truyền
trong đó để tạo mô, tạo chồi, tạo rễ, tái sinh cây là cũng rất khác nhau.
Kích thước mô nuôi cấy khác nhau sẽ cho các phản ứng không giống
nhau và có liên quan mật thiết với tỷ lệ sống, cũng như mức độ ổn định về
mặt di truyền của mô cấy. Do đó, tuỳ từng đối tượng, từng loại mô và mục
đích sử dụng mà người ta nuôi cấy mô có kích thước khác nhau cho phù hợp
[4].
3.2.4. Môi trường nuôi cấy
15
Mô nuôi cấy bị tách rời ra khỏi cơ thể mẹ nên mất khả năng tự dưỡng.
Vì vậy, để cho mô tồn tại, và phân hóa thì trong các giai đoạn nuôi cấy phải
tạo ra được môi trường, có đủ các chất dinh dưỡng mà cây cần thiết. Thành

Tukele và cộng sự (1981) trong thành phần nước dừa có các axit amin,
protein và axit hữu cơ, đường, auxin, cytokynin và các chất quan trọng khác
có tác dụng tốt trong việc tăng trưởng mô [l 2], [25].
3.2.5 Điều kiện nuôi cấy.
Nuôi cấy in vitro là quá trình nuôi cấy trong điều kiện vô trùng, sử dụng
nguồn ánh sáng bằng đèn Neon có thể điều khiển được. Trong phòng thí
16
nghiệm cường độ ánh sáng thường được sử dụng là 2000 - 3000 lux, điều
kiện nhiệt độ luôn luôn ổn định từ 25 - 27
0
C.
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nuôi cấy mô tế bào thực vật.
3.3.l ảnh hưởng của nhiệt độ.
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phân chia tế bào và quá
trình trao đổi chất trong mô. Ảnh hưởng của nhiệt độ bên trong và bên là
ngoài bình nuôi cấy đã được Murashige nghiên cứu vào năm 1947. Theo ông,
nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của thực vật nói
chung. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của từng tế bào
riêng rẻ và khả năng tạo các cơ quan của mô nuôi cấy.
Trong nuôi cấy in vitro, mỗi một loài có biên độ nhiệt độ thích nghi
khác nhau. Nhiệt độ luôn được hạn chế trong hệ thống nuôi cấy nên mô nuôi
cấy sẽ dễ thích nghi hơn với môi trường. Nhiệt độ thích hợp nhất cho nuôi cấy
in vitro chưa được xác định chính xác, nhưng khoảng từ 20 - 27
0
C được sử
dụng nhiều nhất [20].
Nhiệt độ cũng có tác động qua lại tương hỗ với cường độ ánh sáng, chu
kỳ chiếu sáng và những chất thêm vào trong môi trường nuôi cấy.
3.3.2. ảnh hưởng của ánh sáng.
Ánh sáng là nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phân hoá của mô và

cấy. Thông thường, sử dụng auxin trong nuôi cấy lúc đầu ở nồng độ cao, sau
đó ở nồng độ thấp hơn để tránh tình trạng nhiễm độc [11 ].
Cytokinin được Skoog phát hiện lần đầu tiên (1950) trong khi thí
nghiệm chiết suất axit nucleic. Đó là những cấu tử của axit nucleic bị phân
huỷ thành. Cytokinin có tác dụng kích thích phân bào mạnh. Ba chất thường
dùng trong nuôi cấy mô tế bào là kinetin, BAP, và zeatin. Trong đó kinetin
18
lược sử dụng nhiều nhất. Những sản phẩm này kích thích sự phát sinh chồi
nuôi cấy, nếu phối hợp xử lý cùng auxin ở tỷ lệ nồng độ thích hợp thì sẽ kích
thích quá trình phân chia tế bào. BAP là sản phẩm tổng hợp nhân tạo. Hoạt
lực của BAP cao hơn nhiều so với kinetin và bản thân BAP bền vững hơn
zeatin với tác động của nhiệt độ cao. Zeatin ít được dùng vì quá đắt [l2].
Gibberellin điển hình là GA3 có tác dụng kích thích tăng trưởng của
đỉnh sinh trưởng, cảm ứng sự kéo dài của thân, thúc đẩy sự hoạt động của các
phôi dinh dưỡng, phôi ngủ nghỉ của hạt, chồi, kích thích ra hoa của cây ngày
dài trong điều kiện ngày ngắn. Tuy nhiên, sự tác động của gibberellin đến các
tế bào nuôi cấy in vitro là không rõ rệt [11].
3.4. Các nguyên tắc kỹ thuật về nhân giống in vitro.
Giai đoan1: Khử trùng mô cấy.
Đây là giai đoạn tối quan trọng, thậm chí quyết định toàn bộ quy trình
nhân giống in vitro. Mục đích của giai đoạn này là tạo ra được tạo ra được
nguyên liệu thực vật vô trùng để đưa vào nuôi cấy in vitro. Khử trùng mô
thực vật người ta thường dùng một số chất hoá học như HgCl
2
, Ca(OCl)
2
,
NaOCl, H
2
O

này sẽ xuất hiện rễ và trở thành cây hoàn chỉnh. Ở giai đoạn này, người ta
thường bổ sung vào môi trường nuôi cấy các auxin, vì auxin là hocmon thực
vật quan trọng có chức năng tạo rễ phụ từ mô nuôi cấy [33]. Trong nhóm này,
các chất IAA, IBA, α-NAA và 2,4D được sử dụng, nghiên cứu nhiều nhất.
Giai đoan 5: Đưa cây ra đất.
Giai đoạn đưa cây hoàn chỉnh (có đủ thân, rễ, lá) từ ống nghiệm ra đất
là bước cuối cùng của quá trình nhân giống in vitro và là bước quyết định khả
năng ứng dụng quá trình này trong thực tiễn sản xuất.
Cây lấy ra từ ống nghiệm phải được rửa sạch agar bám trên bề lặt rễ để
tránh sự xâm nhập của côn trùng và nấm mốc.
20
Đây là giai đoạn chuyển cây con từ trạng thái sống dị dưỡng sang sống
hoàn toàn tự dưỡng. Do đó, để đảm bảo cho cây có tỷ lệ sống cao thì cần phải
đưa cây ra vườn ươm, ươm trên các giá thể thích hợp từ 10 -15 ngày. Lúc này
rễ mới được sinh ra, lá non bắt đầu hình thành. Sau đó chuyển cây ra đất với
chế độ chăm sóc bình thường.
3.5. ứng dụng của nuôi cấy in vitro trong công tác nhân giống.
Nuôi cấy mô tế bào thực vật có thể phục vụ rất nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trong công tác nhân giống cây trồng, nuôi cấy in vitro được ứng dụng
để:
- Làm phong phú vật liệu di truyền cho công tác chọn giống.
- Nhân nhanh và duy trì các giống, cá thể có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa
kinh tế cao.
- Làm sạch virut phục tráng giống bị thoái hoá vì bệnh.
Trong đó, ứng dụng trong nhân giống cây trồng là lĩnh vực được quan tâm
hơn cả. Nuôi cấy in vitro là một phương pháp nhân giống hữu hiệu nhất trong
các phương pháp nhân giống vô tính. Phương pháp này cho phép tạo ra một
quần thể cây con đồng đều, giữ được đặc tính của cây mẹ, có hệ số nhân
giống cao, sớm phát huy được hiệu quả kinh tế, không tốn diện tích cho nhân
giống dễ chăm sóc, khắc phục được những điều kiện bất lợi của thời tiết.

giới nhờ công nghệ nuôi cấy in vitro.
Tóm lại, nuôi cấy in vitro đã được đưa vào chương trình chọn và nhân
giống hiện đại. Bằng phương pháp này, con người đã xây dựng nên các hệ
thống sản xuất giống gốc, cho nhiều loại cây hoàn toàn sạch virut (khoai tây,
đu đủ…
Ở Việt Nam, từ năm 1975 nhiều phòng nuôi cấy mô trong cả nước đã
thành lập và thu được thành quả đáng kể. Tại Viện Sinh vật - Viện Khoa học
22
Việt Nam hoàn thiện quy trình nhân giống in vitro một số giống cây trồng có
khả năng chống chịu như lúa, thuốc lá, khoai lang, dứa sợi Tại trường Đại
học Nông nghiệp I - Hà Nội hoàn thiện quy trình nhân giống khoai tây. Tại
các tỉnh phía Nam xây dựng được ngân hàng cà phê với 10 giống khác nhau,
hoàn thiện quy trình nhân giống cao su. Ngoài ra, các phòng thí nghiệm nuôi
cấy mô, tế bào trong cả nước đã nghiên cứu thành công nhiều quy trình nhân
giống cây hoa và cây ăn quả.
Tóm lại, nuôi cấy mô thực vật hiện nay được đưa vào trong các chương
trình chọn giống và nhân giống hiện đại, góp phần tích cực vào lý luận sinh
học cây trồng, và thực tiễn nông nghiệp. Mở ra một hướng đi mới cho nghiên
cứu di truyền học, sinh hoá, sinh lý thực vật. Đặc biệt đem lại những ứng
dụng to lớn trong công tác lai tạo và nhân nhanh giống cây trồng.
23
PHẦN BA
ĐỐI TƯỢNG, NÔI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Chồi đỉnh, chồi nách sát chồi đỉnh cây cúc
CN01 (Standard Chrysanthemum)
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
2.1 Giai đoạn trong phòng thí nghiệm.
2.1.1. Thí nghiệm 1: Nghiên cứu hiệu quả của các phương pháp khử trùng.
- Khử trùng bằng H
2

Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên, với 3 lần nhắc lại mỗi
lần nhắc lại 5 bình, mỗi bình cấy 5 mẫu. Đánh giá thí nghiệm sau 4 tuần theo
dõi.
2.1.4. Thí nghiệm 4: Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ IBA đến hệ số nhân
chồi cúc CN01. Thí nghiệm được tiến hành trên môi trường MS cơ bản (3%
saccaro + 0,75% agar) có bổ sung thêm 0,5 mg/l BAP + 15% ND và IBA với
nồng độ thay đổi như sau:
Công thức l : MS + 0,5 mg/l BAP + 15% ND (đối chứng)
Công thức 2 : MS + 0,5 mg/l BAP + 15% ND + 0,l mg/l IBA
Công thức 3 : MS + 0,5 mg/l BAP + 15 % ND + 0,2 mg/l IBA
Công thức 4 : MS + 0,5 mg/l BAP + 15 % ND + 0,5 mg/l IBA
Công thức 5 : MS + 0,5 mg/l BAP + 15 % ND + 1 mg/l IBA
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên, với 3 lần nhắc
lại mỗi lần nhắc lại 5 bình, mỗi bình cấy 5 mẫu. Đánh giá thí nghiệm sau 4
tuần theo dõi.
2.1.5.Thí nghiệm 5: Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ α-NAA đến quá
trình hình thành rễ của chồi cúc CN01. Thí nghiệm được tiến hành trên môi
trường MS cơ bản (3% saccaro + 0,7% agar) có bổ sung α-NAA với nồng độ
thay đổi như sau:
25

Trích đoạn GIAI ĐOẠN NGOÀI VƯỜN ƯƠM.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status