BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-Điều tra, khảo sát, xây dựng các bộ tiêu chí khoanh vùng ô nhiễm và đề xuất dự án xây dựng bản đồ ô nhiểm trên phạm vi toàn quốc - Pdf 27

TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG
CỤC KIỂM SOÁT Ô NHIỄM

NHIỆM VỤ
Điều tra, khảo sát, xây dựng các bộ tiêu chí khoanh vùng ô nhiễm và
đề xuất dự án xây dựng bản đồ ô nhiễm trên phạm vi toàn quốc
XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ KHOANH VÙNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG ĐẤT
Hà nội, tháng 12 năm 2010
i
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU 1
2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ KHOANH
VÙNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH 3
3. PHƯƠNG PHÁP KHOANH VÙNG Ô NHIỄM ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG
ĐẤT 7
4. XÂY DỰNG BỘ CHỈ TIÊU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT ĐỂ KHOANH
VÙNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM 10
4.1 Lựa chọn các chất ô nhiễm môi trường đất điển hình, đặc trưng để xác định bộ
chỉ tiêu ô nhiễm 10
4.2 Chỉ số chất lượng môi trường đất 13
4.3 Lựa chọn các thông số chất lượng môi trường đất 14
4.4 Xây dựng bộ chỉ tiêu khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm Đất của nước ta 15
5. KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
1
1. MỞ ĐẦU
Kiểm soát ô nhiễm môi trường là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
trong công tác quản lý môi trường quốc gia, cũng như quản lý môi trường ở
mỗi địa phương, nhằm mục đích theo dõi kịp thời tình hình ô nhiễm môi
trường, xác định đúng nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường và đề xuất kịp

Ở các nước trên thế giới người ta thường khoanh vùng ô nhiễm/chất
lượng môi trường xung quanh vào một thời gian xác định, khoảng 5 năm hay
10 năm một lần, thí dụ như vào các năm 1990, 2000, 2005. Đối với hiện trạng
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và thời gian khoanh vùng ô nhiễm đã xác
định thì sự biến thiên tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh phụ thuộc
chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Như là đối với môi trường không khí xung
quanh thì sự biến thiên, mức độ ô nhiễm môi trường chủ yếu phụ thuộc vào
điều kiện khí hậu (hướng gió và tốc độ gió), mưa, nắng .v.v ); Đối với ô
nhiễm môi trường các dòng sông thì chủ yếu phụ thuộc vào lưu lượng dòng
chảy, tốc độ và hướng dòng chảy, nhiệt độ nước.v.v.). Đối với ô nhiễm môi
trường nước biển ven bờ thì chủ yếu phụ thuộc vào các dòng hải lưu và tình
trạng thủy triều; Đối với ô nhiễm môi trường đất thì chủ yếu phụ thuộc tính
thẩm thấu, khuyếch tán ô nhiễm môi trường đất và điều kiện địa chất thủy
văn.
Vì vậy, ở các nước trên thế giới, người ta thường sử dụng 2 phương
pháp tiếp cận để khoanh vùng ô nhiễm/chất lượng môi trường xung quanh
như sau:
- Phương pháp tính toán theo mô hình khuyếch tán ô nhiễm môi trường
bằng hệ thống thông tin địa lý (GIS). Phương pháp tiếp cận này đòi hỏi phải
có đầy đủ các thông số về các nguồn thải gây ra ô nhiễm môi trường (vị trí
không gian, lưu lượng thải, chất thải, phương thức thải và các tính chất vật lý
của nguồn thải) và phải có đầy đủ các thông số về điều kiện khí hậu, thủy văn,
hải văn, địa hình, địa chất thủy văn của khu vực nghiên cứu. Phương pháp
tiếp cận tính toán phân bố ô nhiễm theo mô hình có thể vẽ được các đường
đồng mức ô nhiễm tương đối chính xác, tức là có thể khoanh chia vùng
nghiên cứu thành các khu vực có mức độ ô nhiễm môi trường khác nhau.
Tuy vậy, phương pháp tính toán mô hình khuyếch tán ô nhiễm không
phải là phương pháp vạn năng. Thí dụ đối với ô nhiễm môi trường không khí
chỉ đảm bảo độ chính xác tin cậy đối với các nguồn ô nhiễm công nghiệp và
nguồn ô nhiễm giao thông. Còn ô nhiễm môi trường không khí do các nguồn

thường xuyên, lâu dài, cũng không gây ra tổn hại đế n sức khỏe và điều kiện
sinh tồn, không gây ra bất cứ một triệu chứng bệnh tật nào.
Môi trường bị ô nhiễm là môi trường hàm chứa một hay nhiều chất ô
nhiễm có nồng độ vượt quá giới hạn tối đa cho phép được quy định trong tiêu
chuẩn/quy chuẩn môi trường. Mức độ ô nhiễm cao hay thấp được xác định
theo tỷ lệ giữa nồng độ chất ô nhiễm thực tế và trị số nồng độ cho phép.
4
Tiêu chí để khoanh vùng ô nhiễm môi trường chính là các chỉ tiêu cụ
thể (định lượng) để đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường khác nhau, các vùng
ô nhiễm khác nhau, được phân chia bằng đường danh giới có mức ô nhiễm
môi trường khác nhau. Để đánh giá mức độ của ô nhiễm môi trường hay phân
loại chất lượng môi trường ở các nước trên thế giới, người ta thường sử dụng
“Chỉ số chất lượng môi trường (Evironment Quality Index - EQI), như là đối
với môi trường không khí là AQI (Air Quality Index), đối với môi trường
nước mặt là WQI (Water Quality Index), đối với môi trường nước biển ven
bờ là SWQI (Sea water Quality Index), đối với môi trường đất là SoQI (Soil
Quality Index) [5,6,7,8,9,10].
Chỉ số chất lượng môi trường (EQI) vào các năm khoảng 1990 về trước
người ta thường dùng là các chỉ số chất lượng môi trường đối với từng thông
số ô nhiễm (chất ô nhiễm) riêng biệt, vào những năm sau 1990 người ta
thường dùng các chỉ số chất lượng môi trường chung hay tổng quát, tổng hợp
đối với nhiều chất ô nhiễm đặc trưng của mỗi môi trường xác định, như là
EQI tổng hợp đối với môi trường không khí, môi trường nước mặt hay môi
trường nước biển ven bờ.
Công thức xác định bộ chỉ số để đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường
theo từng chất ô nhiễm ở các nước (Nga, Anh, Mỹ, Pháp, Canada ) hay ở
nước ta [10, 11] thường dùng đối với chất ô nhiễm i trong môi trường có dạng
như sau:
,
,

TSS, nhưng không đạt cả loại A1 về DO và TC, hoặc cũng có thể đạt loại A1
về DO và TSS, nhưng TC không đạt cả loại A1 và B1 Như vậy, sông này
(hoặc sông khác) đạt chất lượng đối với nguồn loại nào? Điều này không thể
trả lời nếu dựa theo kết quả phân tích chỉ số chất lượng môi trường đối với
từng thông số.
(2) Mặt khác, đối với một mục đích sử dụng, mỗi thông số có tầm
quan trọng khác nhau, chẳng hạn: độ đục và TC rất quan trọng cho mục đích
tiếp xúc trực tiếp (tắm, bơi lội), nhưng lại không quan trọng cho mục đích cấp
nước cho nông nghiệp; Nhiệt độ, độ mặn, NH4
+ không quan trọng lắm với
nước bãi tắm nhưng rất quan trọng với nước nuôi thủy sản Rõ ràng, trong
những trường hợp trên, rất khó kết luận chất lượng nước của một con sông
(hay đoạn sông) đạt loại A1, A2, B1 hay B2 và chất lượng nước đạt yêu cầu
cho mục đích này, nhưng lại không đạt yêu cầu cho mục đích khác. Nhưng
điều đó dẫn đến rất khó phân vùng và phân loại chất lượng nước sông, khó
quyết định về khả năng khai thác sông (hoặc đoạn sông) cho một hoặc một số
mục đích sử dụng nào đó
(3) Khi đánh giá chất lượng nước qua nhiều thông số riêng biệt, sẽ
không thể nói đến diễn biến chất lượng nước tổng quát của một con sông (hay
đoạn sông) và do vậy, khó so sánh chất lượng nước thời gian này với thời
gian khác (theo tháng, mùa), chất lượng nước hiện tại so với tương lai Như
6
vậy sẽ khó khăn cho công tác giám sát diễn biến chất lượng nước, khó đánh
giá hiệu quả đầu tư để bảo vệ nguồn nước và kiểm soát ô nhiễm nước
(4) Khi đánh giá qua các chỉ số chất lượng nước riêng biệt, chỉ có các
nhà khoa học hoặc nhà chuyên môn quản lý nước mới hiểu được, như vậy khó
thông tin về chất lượng nước cho cộng đồng và các cơ quan quản lý Nhà
nước, các nhà lãnh đạo để ra các quyết định phù hợp về bảo vệ và khai thác
nguồn nước
Để khắc phục những khó khăn trên, cần phải có một hoặc một hệ thống

1 1 1 ,
1 m 1 m 1 n
i j
i
i i j i o
C
EQI
m = m = n = C
⎛ ⎞
= ⎜⎜ ⎟⎟
⎝ ⎠
Σ Σ Σ , (2)
Trong đó:
i = 1, 2, 3 m - là chỉ số ký hiệu các chất ô nhiễm được chọn lựa
xem xét để đánh giá mức độ ô nhiễm của môi trường;
j = 1, 2, 3 n - là chỉ số ký hiệu các điểm quan trắc đối với chất
lượng ô nhiễm i trong một môi trường đã được xác định;
EQI0 - là chỉ tiêu đánh giá mức độ ô nhiễm tổng quát của môi
trường, số lần chúng vượt trị số tiêu chuẩn/quy chuẩn môi trường
cho phép.
Trong trường hợp các tác dụng sinh học của các chất ô nhiễm i trong
một môi trường khác nhau nhiều thì người ta có thể xác định một chỉ tiêu tổng
quát có tính đến trọng số đối với từng chất ô nhiễm để đánh giá mức độ ô
nhiễm tổng quát của một môi trường đã được xác định như sau:
EQI0 = ,
1
1 1 1
,
n
i j

quát của khu vực tiến hành khoanh vùng khu vực đó thành 5 loại như sau:
- Vùng đất đạt chất lượng tốt;
- Vùng đất không bị ô nhiễm;
- Vùng đất bị ô nhiễm;
- Vùng đất bị ô nhiễm nặng;
- Vùng đất bị ô nhiễm rất nặng.
Việc khoanh vùng ô nhiễm đất có thể phân theo tính thẩm thấu,
khuyếch tán của từng loại đất sau:
- Đất có nguy cơ ô nhiễm do tổng hợp các tác động;
- Đất chịu ô nhiễm do hoạt động chôn lấp chất thải đô thị;
- Đất chịu ô nhiễm do nguồn nước thải của các nhà máy hóa chất công
nghiệp;
- Đất có nguy cơ ô nhiễm do phân bón, thuốc bảo vệ thực vật;
- Đất có nguy cơ thoái hóa do xói mòn và rửa trôi;
- Đất mặn ven biển, đất lấn biển và đất ảnh hưởng của nước mặn;
- Đất bạc màu có độ phì nhiêu thấp, ảnh hưởng của thâm canh;
- Đất cát ven biển;
- Đất phù sa sông;
- Đất có hoạt động nông lâm kết hợp;
- Đất phèn.
9
Ở mỗi khu vực ô nhiễm môi trường đất việc lấy mẫu chính được xác
định và 4 điểm lấy mẫu phụ bố trí xung quanh điểm chính trên cùng một thửa
ruộng hoặc một khu vực được coi là đồng nhất.
- Mẫu chính: Lấy theo phẫu diện ở tầng đất ( 0-30 cm và 30-60 cm).
- Các mẫu phụ: Lấy 1 tầng đất mặt, độ sâu lấy mẫu 0-30cm.
Tùy theo mục đích nghiên cứu, chiều sâu lấy mẫu theo phẫu diện có thể
dao động từ 0-150 cm. Số lượng tầng lấy mẫu phụ thuộc vào sự phân tầng cụ
thể trong suốt phẫu diện, có thể lấy đến 4-5 tầng trong một phẫu diện.
- Đối với vùng đất bạc màu, lấy mẫu tầng mặt ở độ sâu 0-15cm và 15-

các loại đất, thể hiện mức độ ô nhiễm không khí bằng các gam màu khác
nhau:
- Khu vực có chất lượng đất tốt - màu xanh nước biển;
- Khu vực không bị ô nhiễm - màu xanh da trời;
- Khu vực bị ô nhiễm - màu vàng;
- Khu vực bị ô nhiễm nặng - màu đỏ;
- Khu vực bị ô nhiễm rất nặng - màu tía.
Đồng thời kèm theo các bảng số liệu cơ bản về khu vực đó.
4. XÂY DỰNG BỘ CHỈ TIÊU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT ĐỂ
KHOANH VÙNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
4.1 Lựa chọn các chất ô nhiễm môi trường đất điển hình, đặc trưng để
xác định bộ chỉ tiêu ô nhiễm
Chất lượng/ô nhiễm môi trường đất ở mỗi địa phương hay toàn quốc gia
biến đổi chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn thải khí từ các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, phụ thuộc vào tính thẩm
thấu, khuyếch tán ô nhiễm môi trường đất và điều kiện địa chất thủy văn. Các
nguồn gây ô nhiễm môi trường đất chủ yếu là:
- Các chất thải sinh hoạt bao gồm nước thải và hoạt động xử lý chất thải
sinh hoạt;
- Chất thải công nghiệp bao gồm nước thải và chất thải công nghiệp;
- Sử dụng phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật;
- Khai thác khoáng sản;
11
- Tác nhân hóa học: Bao gồm phân bón N, P (dư lượng phân bón trong
đất), thuốc trừ sâu (clo hữu cơ, DDT, linden, aldrin, photpho hữu cơ…), chất
thải công nghiệp và sinh hoạt (kim loại nặng, độ kiềm, độ axit…);
- Tác nhân sinh học: Trực khuẩn lỵ, thương hàn, các loại ký sinh trùng
(giun, sán…);
- Tác nhân vật lý: Nhiệt độ (ảnh hưởng đến tốc độ phân hủy chất thải của
sinh vật), độ lèn chặt của đất, chất phóng xạ (Uran, Thori, Sr90, I131, Cs137).

đất trôi (theo trận mưa)
+ OC, N, P, K tổng số, CEC, thành phần cơ giới: 3 năm/lần
- Vùng đất mặn do quá trình mặn hóa
+ pH, EC, TSMT, Cl − , SO 4 , Na + , SAR, P 2O5 dễ tiêu, K2O dễ tiêu: 1
năm/1 lần
+ OC, N, P, K tổng số, CEC, thành phần cơ giới: 3 năm/1 lần
- Vùng đất bạc màu có độ phì nhiêu tự nhiên thấp
+ pH, Ca2+, Mg2+, P 2 O5 dễ tiêu, K2O dễ tiêu: 1 năm/lần
+ OC, N, P, K tổng số, CEC, thành phần cơ giới: 3 năm/lần
- Đất bị ảnh hưởng của quá trình sa mạc hóa
+ Sức chứa ẩm tối đa, độ ẩm cây héo, pH, P 2O5 và K2O dễ tiêu, Ca2+,
Mg2+, Na + : 1 năm/1 lần
+ OC, N, P, K, tổng số, CEC, thành phần cơ giới: 3 năm/1 lần
- Đất phèn hóa
+ pH, TSMT, Cl − , SO 4 , BS, SAR, ESP: 1 năm/lần
+ OC, N, P, K tổng số, S tổng số, CEC, thành phần cơ giới: 3 năm/lần
- Vùng đất do đầu tư thâm canh trong nông nghiệp
+ pH, TSMT, P 2 O5 và K2O dễ tiêu, Ca2+, Mg2+, kim loại nặng, dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật: 1 năm/lần
+ OC, N, P, K tổng số, CEC, thành phần cơ giới: 3 năm/lần.
Tiêu chuẩn chất lượng đất ở nước ta cũng như ở tất cả các nước trên thế
giới, chủ yếu được xác lập trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của ô nhiễm ảnh
hưởng của ô nhiễm đất đối với ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp, và
chất lượng nông sản, mà còn thông qua lương thực, rau quả… ảnh hưởng gián
tiếp tới sức khỏe con người và động vật. Vì vậy bộ chỉ tiêu khoanh vùng ô
nhiễm đất là thống nhất và dùng chung cho quốc gia.
13
Việc chọn lựa các chất ô nhiễm điển hình đặc trưng trong việc xây
dựng bộ chỉ tiêu ô nhiễm để khoanh vùng ô nhiễm môi trường đất thực tế phụ
thuộc vào 2 điều kiện sau:

gây ô nhiễm asen lớn.
- As (III) thể hiện tính độc khi nó tấn công vào nhóm hoạt động làm cản
trở hoạt động của enzim. AsO4
3- có tính chất tương tự như PO4
3- gây ức chế
enzim, ngăn cản quá trình tạo ra ATP - là chất sản ra năng lượng. As (III) làm
đông tụ các protein do tấn công vào liên kết sunfua. Asen có trong nước uống
gây ung thư da, tăng rủi ro các bệnh tim mạch, phổi
c) Ca+, Mg+: Thường mất đi trong đất rửa trôi xói mòn vùng, hàm
lượng chất bị rửa trôi tương ứng trong cặn xói.
d) N: Hàm lượng bị rửa trôi trong cặn xói
đ) P2O5 : Chất này có trong lân, thường mất đi trong quá trình xói mòn
đất gây ảnh hưởng đến việc sinh trưởng của cây trồng.
e) Tổng số muối tan (TSMT): Do ảnh hưởng trực tiếp của nước biển và
nước biển xâm nhập vào đồng ruộng theo sông ngòi khi thủy triều dâng cao,
hoặc mưa bão làm vỡ đê biển. Do ảnh hưởng của mạch nước ngầm: Trên lục
địa do khí hậu khô hanh khô mực nước nông nên muồi được di chuyển tập
trung lên mặt đất thành một lớp vỏ muối trắng xóa làm đất nhiễm mặn. Do tác
động độc hại của các ion phân ly:Cl , SO, HCO3, Na, Mg2… Vì thế trong đất
chứa nhiều muối tan.
g) Độ mặn: Đất bí chặt, thấm nước kém. Khi khô: đất co lại, nứt nẻ, rắn
chắc. Khi ướt: đất dẻo, dính làm cho vùng rễ cây hoạt động kém, đất khó làm.
4.3 Lựa chọn các thông số chất lượng môi trường đất
Như phần 4.1 đã đưa ra tiêu chí lựa chọn các chỉ thị chất lượng đất dựa
theo 2 điều kiện đó là Quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia và thông số
quan trắc. Đại diện cho các thông số kim loại nặng không nên dùng quá nhiều
thông số, làm mất cân bằng đánh giá. Chúng tôi kiến nghị sẽ chọn lọc một
trong những thông số sau:Asen (As) hay kẽm (Zn) hoặc chì (Pb). Bởi vì hiện
nay chưa tìm thấy thông số Cadimi (Cd) trong đất và thông số Cu thì kết quả
quan trắc cho thấy hàm lượng Cu trong đất thấp hơn mức cho phép quy định

( )
( ) 100 1
1 0
x
C As
C As
n
n
i
i Σ=
(4b)
SoQI (Ca2+) =
( )
( ) 100 1
1
2
0
2
x
C Ca
C Ca
n
n
i
i Σ=
+
+
(4c)
SoQI (Mg2+) =
( )

1 0 2 5
2 5 x
C P O
C P O
n
n
i
i Σ=
(4g)
SoQI (K2O) =
( )
( ) 100 1
1 0 2
2 x
C K O
C K O
n
n
i
i Σ=
(4h)
16
SoQI (TSMT) =
( )
( ) 1 100
1 0
x
C TSMT
C TSMT
n

( ) ( ) ( ) ( ) ( )⎟ ⎟⎠

⎜ ⎜⎝

+ + + + +
+ + + + +
SoQI N SoQI P O SoQI K O SoQI TSMT SOQI Dm
SoQI pH SoQI As SoQI Ca SoQI Mg
2 5 2
( 2 2
9
100 (5)
b) Các mức khoanh vùng ô nhiễm
Tương tự như cách phân khoảng (phân mức) chất lượng /hay ô nhiễm
không khí của EPA (Mỹ), Canada và ở nhiều thành phố khác trên thế giới,
chúng tôi kiến nghị khoanh vùng ô nhiễm môi trường đất ở nước ta theo 5
mức hay 5 vùng: có chất lượng tốt, không bị ô nhiễm, bị ô nhiễm, bị ô nhiễm
nặng và ô nhiễm rất nặng, tương ứng với 5 khoảng chỉ tiêu ô nhiễm tổng quát
như sau:
- Môi trường đất có chất lượng tốt SoQIo ≤ 50; (6a)
- Môi trường đất không bị ô nhiễm khi 50 < SoQIo ≤ 100; (6b)
- Môi trường bị ô nhiễm, khi 100 < SoQIo ≤ 200; (6c)
- Môi trường bị ô nhiễm nặng, khi 200 < SoQIo ≤ 300; (6d)
- Môi trường bị ô nhiễm rất nặng, khi SoQIo > 300; (6e)
17
5. KẾT LUẬN
Bộ tiêu chí khoanh vùng ô nhiễm môi trường đất sẽ cơ sở để đánh giá
chất lượng đất của từng vùng và mức độ ô nhiễm môi trường đất ở 5 mức độ:
Môi trường đất có chất lượng tốt, Môi trường đất không bị ô nhiễm, Môi
trường bị ô nhiễm, Môi trường bị ô nhiễm nặng, Môi trường bị ô nhiễm nặng.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status