Logo thương mại dưới góc nhìn ký hiệu học - Pdf 28

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________

Phạm Thị Minh Hải
LOGO THƯƠNG MẠI
DƯỚI GÓC NHÌN KÝ HIỆU HỌC Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. NGUYỄN ĐỨC DÂN



đi tìm những đơn vị cơ bản trong logo, vai trò và những cách thức kết hợp, và quan
trọng hơn, những nội dung ý nghĩa hệ thống logo có khả năng biểu đạt – đó là những vấn đề mới mà chúng tôi sẽ đề cập trong luận văn nà
y đồng thời cũng là lý
do mà chúng tôi lựa chọn “Logo thương mại - dưới góc nhìn ký hiệu học” làm đề tài
nghiên cứu của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do số lượng logo trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng rất nhiều,
số lượng ấy cũng đang sinh sôi, phát triển từng ngày, từng giờ, nên để lựa chọn
được một cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và bao quát hết được nội dung nghiên cứu
là điều cực kỳ khó khăn và gần như không có tính khả thi. Chúng tôi dù cố gắng hết
sức, cũng chỉ có thể thu thập một hệ thống dữ liệu trên tiêu chí cố gắng bao quát
đư
ợc nhiều ngành nghề sản xuất, đại diện tương đối đầy đủ cho hầu hết các xu
hướng thiết kế, và phần nào đáp ứng được đầy đủ nhu cầu nghiên cứu của luận văn.
Những logo được chúng tôi lựa chọn đều gắn với hoạt động sản xuất
thương mại, là những thương hiệu có tên tuổi và đã được ghi nhận trong t
hực tế. Do
phạm vi của luận văn nên những logo hay biểu trưng trong các lĩnh vực văn hóa, xã
hội, chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây. Còn những logo được hình thành ngẫu
nhiên, có tính “sao chép” được bắt gặp rất nhiều ngoài đường phố không phải là đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi. Ngoài ra, những đối tượng chúng tôi nghiên cứu
chủ yếu mang tính “đồng đại”, tức là những logo đang hiện hà
nh và hoạt động.
Những logo đã được thay thế, chỉ là đối tượng nghiên cứu phụ trợ cho một vấn đề
cụ thể nào đó, chứ không phải đối tượng nghiên cứu chủ yếu.
Những logo được đưa vào hệ thống dữ liệu, là những logo “chuẩn” trong

hai hướng:
o So s
ánh đối chiếu trong nội bộ các logo. Tìm ra những điểm tương
đồng hay dị biệt giữa các logo, trên cơ sở đó có thể nhóm chúng lại
vào một nhóm hoặc tách rời chúng ra.
o So sánh đối chiếu với các yếu tố bên ngoài liên quan trực tiếp tới đối
tượng. Với ngữ cảnh sử dụng, với các biểu tượng văn hoá, lịch sử, với
những xu hướng thiết kế và biểu đạt trong thiết kế…
o So sánh đối chiếu với các yếu tố bên ngoài l
iên quan gián tiếp tới đối
tượng. So sánh những tương đồng và dị biệt của hai mặt biểu đạt và
được biểu đạt trong logo và trong một dạng hệ thống ký hiệu khác là
ngôn ngữ nhằm đưa đến một cái nhìn tổng quan của dạng hệ thống ký hiệu đang đư
ợc nghiên cứu. Qua đó có thể vận dụng linh hoạt những
phương pháp nghiên cứu phù hợp sẵn có trong ngôn ngữ vào việc
nghiên cứu logo.
- Phương pháp điều tra thực tế: Chúng tôi tiến hành xem xét những bối cảnh
thực tế nơi logo được hình thành và phát triển.
o Công ty quảng cáo Song Vân (175 Nguyễn Sỹ Sách, quận Tân Bình).
Nơi chúng tôi được trải nghiệm một quy trình thiết kế logo hoàn chỉnh
từ khâu tiếp xúc gặp gỡ khách hàng - lên kế hoạch
thiết kế - giới thiệu
khách hàng lựa chọn các thiết kế - chỉnh sửa lại theo yêu cầu - xây
dựng những quy định sử dụng cho các thiết kế đó – đưa vào sử dụng
trong thực tế.
o Các văn phòng, cửa hàng, các trung tâm thương mại, siêu thị, các đại
lý uỷ quyền… Đây là những nơi logo thể hiện vai trò thực và sống đời

uất hiện định nghĩa ở dạng sơ khai,
tổng quan nhất về ký hiệu “Ký hiệu là cái gì mà chúng ta khi nghĩ đến nó thì sẽ có
thêm một cái gì khác ngoài ấn tượng cảm giác” [1; 5]. Tuy nhiên, định nghĩa này
còn mang nghĩa lẫn lộn, mơ hồ, đặc biệt, đánh đồng thuật ngữ ký hiệu và triệu
chứng. Những lý thuyết về ký hiệu học được manh nha, hình thành trong suốt một
thời gian dài với các công trình của John Locke, Jean Poinsot, Joseph Marie H
onene
– Wronski, Bernard Bolzano, Edmund Husserl…Mãi tới nửa sau thế kỷ XIX,
Ferdinand de Saussure ở châu Âu và Charles Sanders Peirce (Mỹ) mới thật sự là hai
người đặt nền móng cho ngành ký hiệu học hiện đại. Peirce đã xây dựng được một
hệ thống phân loại các ký hiệu tạo ra mô hình tam phân ký hiệu, còn Saussure đã
chỉ ra được bản chất hai mặt của một ký hiệu. Sau khi ký hiệu học hiện đại được mở
đường, nhiều trường phái mới được tạo ra với các đóng góp của
nhiều nhà nghiên
cứu tiêu biểu như A.J. Greimas, Barthes, Hielmslev, Lotman, Propp…
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phạm trù rộng lớn này. Theo ý nghĩa
rộng nhất, Umberto Eco chỉ ra: “semiotics is concerned with everything that can be
taken as a sign” [15,7]. Tạm dịch: Ký hiệu học liên quan tới mọi yếu tố có khả năng
biểu đạt một ý nghĩa. Do đó, không chỉ ngôn ngữ, mà rất nhiều yếu tố khác trong
đời sống, từ các ký hiệu trong các ngành khoa học, những dấu hiệu giao thông, các
biển c
hỉ dẫn, tranh vẽ, các biểu tượng văn hóa, logo…đều là những hệ thống ký
hiệu. Lịch sử nghiên cứu logo thương mại thực ra cũng chỉ mới được hình thà
nh
và phát triển trong thời gian gần đây, với các góc nhìn như sau:
Góc nhìn của nhà thiết kế, đồ họa. Rất nhiều tài liệu, giáo trình viết về
logo hoặc có đề cập đến logo xuất phát từ góc nhìn của các nhà thiết kế. Các tài liệu

n cứu logo trên cơ sở đặt đối tượng này làm trung tâm. Tiêu biểu có các tài liệu của Lisa Silver và nhóm tác giả Sean Adams, Noreen
Morioka, Terry Stone
1
. Tuy nhiên, những tác giả này lại đi sâu vào nghiên cứu lịch
sử hình thành và phát triển của logo, đi tìm câu trả lời lý giải sự thành công của logo
các thương hiệu lớn. Lisa Silver thông qua phân tích riêng lẻ 100 logo nổi tiếng thế
giới từ những nét vẽ sơ khai ban đầu đến thời điểm hiện tại, lý giải sự thay đổi và
những ích lợi các công ty đạt được từ những thay đổi đó. Nhóm tác giả Sean
Adams, Noreen Morioka, Terry Stone lại đi sâu vào tìm câu trả lời cho các câu hỏi :
“Ai sở hữu?”; “Ai làm ra logo?” và “Logo được ra đời từ đâu?” để đi tìm câu hỏi
cho sự t
hành công của mỗi một logo nổi tiếng.
Lịch sử nghiên cứu logo dưới góc nhìn của ký hiệu học, mới chỉ được đề
cập rất rải rác trong số ít các công trình về ký hiệu học, và mới chỉ dừng lại ở việc
giới thiệu logo là gì chứ chưa đi sâu vào cấu trúc nội tại về hai mặt hì
nh thức và nội
dung của loại đối tượng này.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a) Ý nghĩa khoa học
- Chúng tôi mong muốn đưa ra được bức tranh toàn cảnh về bản chất của logo
với hai lớp hữu cơ gắn bó chặt chẽ: nội dung và hình thức, qua đó xây dựng
những nghiên cứu tổng quan và chi tiết nhất về một dạng ký hiệu phi ngôn
ngữ này.
- Đưa ra những cơ sở lý thuyết nền tảng nhằm nhận diện một khuynh hướng
biểu đạt nội dung đặc trưng thông qua một hình thức thể hiện mới mẻ của
logo.
- Xây dựng những tri thức toàn diện, sâu sắc và hệ thống về một trong những

ký hiệu như những biểu tượng, biểu trưng “thay lời muốn nói”.
Chương 1
:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ1.1. Nguồn gốc hình thành và sự phát triển của logo
Được coi là “một tín hiệu thị giác dùng để nhận diện”, logo ra đời và
được sử dụng lần đầu tiên gắn với hoạt động “đánh dấu vật nuôi” của người Hy Lạp
cổ đại từ 2000 năm trước Công Nguyên để phân biệt đối tượng sở hữu của người
này với người khác hay các loại đối tượng sở hữu khác nhau của cùng một người.
Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, tín hiệu t
hị giác này được hiện thực hóa lên người
bằng cách nung nóng những mảnh kim loại đánh dấu trực tiếp vào cơ thể của nô lệ,
tội phạm hay những kẻ đào ngũ. Những cái “triện” cổ xưa này có thể coi như là
những hình thức sơ khai đầu tiên của logo thương mại. Lúc này nó chưa mang ý
nghĩa và thiết kế gì đặc biệt, chỉ là một “cái gì đó” khác biệt so với người khác
nhằm ph
ân biệt mà thôi.
Giai đoạn phát triển tiếp theo, logo đơn thuần chỉ là một kiểu mã sơ khai
bao gồm một ký tự, và dần phát triển thành hai hay nhiều ký tự lồng vào nhau. Mã
này có thể là một ký tự nào đó đại diện cho một tên gọi, cũng có thể là biểu tượng
tiêu biểu của một nhân vật nào đó. Những logo nổi tiếng nhất trong thời kỳ này là
logo của tôn giáo. Khởi nguồn là hiện tượng lồng hai chữ cái đầu tiên và cuối cùng
trong bảng hệ thống chữ cái cổ của Hy Lạp l
à Anpha và Omega vào với nhau. Thực
ra, đây chỉ là hai ký tự đầu và cuối trong bảng chữ cái Hy Lạp. Nhưng theo truyền

và độc lập với sự xuất hiện của nh
iều công ty thiết kế. Ngoài ra, người ta cũng
không tiếc hàng đống tiền để tạo cho nhãn hiệu của mình một logo như ý. Và sự tồn
tại của logo không còn tính chất phụ thuộc như trước nữa. Ngày nay, sự tồn tại của
logo thương mại đã đóng vai trò trung tâm trong thiết kế thương hiệu, và vận mệnh
của nó ảnh hưởng tới toàn bộ các yếu tố còn lại trong hệ thống nhận diện thương
hiệu. Logo ngà
y nay đã thực sự bước vào thời kỳ “trăm hoa đua nở” và hứa hẹn sẽ
còn nhiều bước phát triển lớn hơn nữa trong tương lai.
1.2. Thuật ngữ logo và các cách hiểu
Logo là tên gọi rút ngắn từ thuật ngữ logotype. Nếu tên gọi logotype từ
trước tới nay vẫn được dùng để chỉ các hình thức của biểu trưng, biểu tượng thì
ngày nay, tên gọi logo thường dùng để chỉ các hình thức đồ họa được thể hiện trong
lĩnh vực thương mại, kinh tế.
Thời kỳ trước khi thuật ngữ logo ra đời, người ta thường quen gọi dạng
“tín hiệu thị giác” này dưới cái tên symbol trong tiếng Anh, s
ymbole trong tiếng Phá
p hay biểu tượng, biểu trưng theo tiếng Việt. Thuật ngữ này được dùng để chỉ
chung cho mọi loại tín hiệu thị giác đóng vai trò nhận diện trong tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, trong nhiều loại phạm vi như địa phương, nhóm người
hay quốc gia…Logo tuy là một từ nguyên văn tiếng Anh, nhưng trong thực tế, nó đã
được dùng như một từ độc lập, được tôn trọng nguyên bản tuyệt đối về mặt chữ
viết, thuộc nhóm
từ quan trọng trong hệ thống thuật ngữ thương mại Việt Nam và
gần như không có từ thay thế. Những cách gọi khác nhau như biểu trưng, biểu
tượng…không bao quát được đầy đủ những ý nghĩa cơ bản của nó.
Logo chỉ là một loại tín hiệu thị giác bên cạnh nhiều loại tín hiệu khác

yếu tố “mascot” hay linh vật có ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động
văn hoá hơn là các thiết kế thương mại.
- Từ điển Oxford định nghĩa logo là “một thiết kế hay biểu tượng mà các công
ty, tổ chức dùng như một dấu hiệu đặc trưng”, sym
bol là “(1) Một cá nhân,
vật thể hoặc sự kiện tiêu biểu cho số đông hay một tình huống nào đó. (2)
một ký hiệu, chữ, hay số…có nghĩa quy ước, đặc biệt trong khoa học, toán
học, âm nhạc… Ở đây, các tiêu chí phân biệt tuy không rõ ràng nhưng cũng
thể hiện t
heo hai hướng. Thứ nhất là môi trường biểu hiện: sự tồn tại của
logo nghiêng về lĩnh vực thương mại, còn symbol phổ biến trong nhiều lĩnh
vực khác. Thứ hai là về vai trò: tuy không được nói ra cụ thể nhưng ta dễ
dàng nhận thấy ở đây, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò “dấu hiệu nhận diện”
của logo và tính “quy ước tiêu biểu” của sym
bol.
- Theo Wikipedia Việt Nam, logo “tương đương trong tiếng Việt là biểu
trưng. Biểu trưng có thể hiểu là biểu tượng cho một công ty, một tổ chức,
một hoạt động (như một cuộc thi...) hay một ban nhóm. Biểu trưng mang tính
đặc trưng cho đối tượng mà nó đại diện. Trong hoạt động quảng bá, biểu
trưng không phải là thương hiệu, tuy rằng nó cũng là ấn tượng bê
n ngoài đại
diện cho thương hiệu, giúp công chúng dễ nhận diện ra thương hiệu”. Định
nghĩa này chỉ mới đề cập đến vai trò của logo mà chưa giúp người đọc hình
dung được khái niệm về logo. Ngoài ra, nó còn khiến người đọc dễ dàng
đánh đồng hai khái niệm symbol (biểu tượng) với logo.
Hiện tượng nhầm lẫn này, ngoài lý do chủ quan về quan điểm của từng
nhà nghiên cứu, cũng có những lý do khác
h quan từ bên trong bản chất của hai đối
tượng này. Thứ nhất, cả hai đều có thể được tạo ra dựa trên tư duy về thị giác, là
hình ảnh cô đọng nhất mang tính đại diện. Thứ hai, mổ xẻ về cấu trúc, cả hai đều có

người ta sử dụng lẫn lộn, thì mức độ xuất hiện trong cùng ngữ cảnh tương tự
nhau của “biểu tượng” vẫn cao hơn “logo”.
Những ví dụ về sự “bất thường” hay “bình thường” của các cách nói sau đây
sẽ chứng minh cho điều nà
y:
Biểu tượng của hãng thời trang Puma là hình ảnh con báo (+)
Logo của hãng thời trang Puma là hình ảnh con báo (+) Biểu tượng của đạo Phật là hoa sen
(+)
Logo của đạo Phật là hoa sen. (-)
Từ những phân tích trên đây, người viết mạn phép đưa ra một cách hiểu
thống nhất về logo như sau: Logo thương mại là kiểu tín hiệu thị giác mang những
hình thức đặc trưng dùng để nhận diện một nhãn hiệu hàng hóa cụ thể thông qua
phương thức đồ họa từ văn bản, hình ảnh, màu sắc và không thể lẫn với tín hiệu thị
giác của bất cứ một tổ chức nào, cá nhân nào khác nó. Định nghĩa này đứng dưới
qua
n điểm nhìn nhận những logo có phẩm chất đích thực - tức những logo không có
hình thức nhái hay bắt chước các logo khác.
Vấn đề còn lại là biểu tượng thương mại sẽ nằm ở đâu trong sự quy
chiếu với yếu tố logo. Thực ra, biểu tượng trong thương mại cũng rất phong phú
không kém
gì ngoài đời thực và vị trí của nó có khi không hề thua kém logo. Có khi
nó nhập vào logo thành một: tức logo đồng nhất với biểu tượng, chẳng hạn: logo
ViewSonic (204), cũng có khi biểu tượng tách khỏi logo và có đời sống riêng của
nó. Chẳng hạn, hình hai bàn tay nắm chặt nhau trong các thông tin quảng cáo của
Nokia không phải là logo, nhưng lại mang dấu hiệu nhận diện mạnh mẽ hơn và có
sức thuyết phục mạnh mẽ hơn chính cả logo. Nhưng nó vẫn mãi là biểu tượng của
sự gắn kết chứ không có những tiêu chuẩn về đồ họa cũng như hình ảnh để trở

Chẳng hạn, báo Sài Gòn Tiếp Thị luôn có mục “Giới thiệu logo các doanh nghiệp”
hay “Chúc mừng sinh nhật các doanh nghiệp trong tháng”, tại đó hình ảnh tất cả
các doanh nghiệp đều được thể hiện mình thông qua logo. Điều đó cho thấy tầm
quan trọng đặc biệt không thể thay thế của logo trong vai trò nhận diện cũng như
đại diện cho nhãn hiệu.
Ngà
y nay, vai trò của logo được đề cao tới mức người ta sẵn sàng chi trả
những chi phí vô cùng khổng lồ chỉ với mục đích tìm kiếm cho doanh nghiệp một
logo đặc trưng và ý nghĩa nhất.
o Logo Vietnam Airline
2
: gây tranh cãi vì không biết chọn hình ảnh gì,
Phải mất 4 năm xây dựng, với chi phí 2,5 triệu đôla, và thuê các
chuyên gia thiết kế thương hiệu tới từ Mỹ, hình ảnh bông sen vàng
mới chính thức được lựa chọn thử nghiệm và đi vào sử dụng
o Vietel ngay khi đi tìm hình ảnh đại diện của mình cũng phải thuê JWT
thiết kế logo. Từ khi thai nghén đến lúc chào đời, logo Viettel cũng
phải đi qua chặng đường hơn một năm với bao công sức, tiền của và
sự đấu tranh giữa các ý tưởng của các nhà thiết kế cũng như lãnh đạo
công ty.
2
Nguồn: Người ta không chỉ ch
i một khoản tiền lớn cho logo, mà còn sẵn sàng
thay đổi logo theo yêu cầu của khách hàng hay độ phản ứng của dư luận. Cụ thể:

7/7/2007: Đông Á bank công bố logo mới kết hợp kỷ niệm 15 năm thành lập. Nói
cách khác, sự thay đổi logo luôn mang tính “có lý do”, lý do ấy có thể xuất phát từ môi trường bên ngoài, có thể từ nhu cầu nội tại bên trong của nhãn hàng.
Có rất nhiều website ra đời nhằm p
hục vụ khách hàng những dịch vụ về
logo nói riêng và thiết kế thương hiệu nói chung cũng như đưa các thông tin về sự
phát triển của logo. Tình yêu với logo cũng phổ biến đến nỗi trên thế giới xuất hiện
cả những hiệp hội yêu thích logo dành cho những người đam mê sáng tạo logo, tiêu
biểu nhất là diễn đàn sáng tác logo G
oogle lấy cảm hứng từ các sự kiện lịch sử, văn
hóa, chính trị, xã hội… quốc gia và quốc tế quan trọng.
Qua đó ta thấy, trong thời đại của thông tin, quảng cáo như ngày nay, vai
trò và ý nghĩa của logo đang ngày được củng cố và phát triển. Qua đó, việc tìm
hiểu, nghiên cứu về nó cũng là một vấn đề bức thiết cần làm.

1.4. Logo là một hệ thống ký hiệu phức hợp
1.4.1. Ký hiệu và hệ thống ký hiệu logo
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về ngành ký hiệu học nói chung và bản
chất của ký hiệu nói riêng. Không hẹn mà gặp, gần như các nhà nghiên cứu đều gặp
nhau ở chỗ coi ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu quan trọng và đặc trưng nhất, do đó,
việc xem xét bản chất của ký hiệu cũng thường được đặt trong mối tương quan với
hệ thống ngôn ngữ. Saussure xem ngôn ngữ như một hệ thống quan trọng nhất trong

toàn bộ các hệ thống ký hiệu. Còn Émile Benveniste nhận định “Ngôn ngữ là hệ
thống có chức năng giải thích của cho tất cả những hệ thống khác, bao gồm những
hệ thống của ngôn ngữ và phi ngôn ngữ [12;85]. Dù có nhiều quan điểm khác nhau,
cũng đều thống nhất ở một điểm: Ký hiệu là một dạng thức truyền đạt thông điệp.
Sự phong phú của các hình thức truyền đạt sẽ dẫn đến sự phong phú, phức tạp của

à nhà tạo lập logo muốn chuyển tải.
Dựa trên bản chất của Sa và Se căn cứ vào cơ sở nền tảng lý luận về bản chất ký
hiệu học của Saussure cùng với những nghiên cứu tổng quan cụ thể về đối tượng
logo thương mại, chúng tôi xây dựng một sơ đồ tổng quát về mặt bản chất ký hiệu
của logo như sau. Sơ đồ 1.1 Bản chất ký hiệu của logo

Sa – Hình thức
Phương thức Se- Nội dung
chuyển tải nội dung
Hình ảnh sản phẩm

Tên gọi

Chữ Đặc trưng phẩm chất



Nội dung
so sánh
Logo Ngôn ngữ
Quan hệ giữa
Sa và Se
- Mang tính có “lý do”: tức
luôn có một mối tương quan
hoặc thô sơ hoặc chặt chẽ
giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt.
- Cái biểu đạt Sa: sự thể hiện
mang bản chất của chiều
không gian nhiều hơn, ngoại
trừ những logo có yếu tố ký
tự, tính hình tuyến về thời
gian của các logo còn lại hầu
như không được biểu hiện..
- Mang tính võ đoá
n: dựa
trên sự quy ước giữa hai
yếu tố Se và Sa trong
một cộng đồng cụ thể
chứ không phải do nội tại
bản thân cái biểu đạt quy
định.
- Cái biểu đạt Sa mang
tính hình tuyến rõ nét:
tức diễn ra theo thời gian
và mang những đặc điểm

Ðặc điểm nội
dung
nhiều vào cảm n
hận của
người tiếp nhận.
- Do không mang tính quy
ước nên người ta có thể dễ
dàng tiếp cận Se thông qua
con đường tri nhận phổ quát
mà không bị vướng bởi rào
cản ngôn ngữ.
chặt chẽ từ cộng đồng
người sử dụng ngôn ngữ
đó.
- Việc tiếp cận Se không
thể xảy ra nếu người sử
dụng tại các cộng đồng
k
hác nhau chưa học
những cách thức quy ước
đặc trưng của nhau.
Giống
- Mối quan hệ giữa Sa và Se có tính gắn bó hữu cơ
chặt chẽ như hai mặt của một tờ giấy tức không thể
có tình trạng mặt này tồn tại mà không có sự tồn tại
của mặt kia.

Trên những cơ sở đã phân tích, nội dung luận văn của chúng tôi sẽ bao gồm 2 phần
chính như sau:
- Phần 1: Nghiên cứu về Sa tức hình thức của logo: nghiên cứu về các yếu tố

Kết hợp những tiêu chí trên đây, ta có các kiểu logo khác nhau. Trong đó có
những tiêu chí có tính liên kết hữu cơ chặt chẽ, tức là phải song hành tồn tại cùng
nhau. Chẳng hạn: những yếu tố như kiểu chữ - hình chữ - nét chữ - màu sắc bắt
buộc phải cùng tồn tại đồng thời, cũng có những tiêu chí mang quan hệ thay thế, tức
có mặt yếu tố này thì không thể có mặt yếu tố kia (chẳng hạn 2 đặc điểm cùn
g tồn
tại trong một tiêu chí: kiểu chữ, hình chữ, nét chữ…), cũng có những tiêu chí không
bó buộc tức có thể xuất hiện hay không xuất hiện bên cạnh những tiêu chí khác
(chẳng hạn hình ảnh). Dựa trên các cơ sở này, ta có 34 loại logo khác nhau xét về
mặt hình thức thể hiện như sau:
2.1.2. Bảng phân loại
Bảng 2.1

KIỂU CHỮ HÌNH CHỮ NÉT CHỮ MÀU SẮC HÌNH ẢNH Thường In Thường
Cách
điệu
Thường
-mảnh
Đậm
Đen
Trắng
Màu
khác
Không Có

9 X X X X X

Trích đoạn Phản ánh thời gian Phản ánh người sáng lập Họa sỹ lập thể trừu tượng người Hà Lan với bố cục: ĐỎ-VÀNG-XANH-ĐEN nổi tiếng từng được vinh danh trong logo Google.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status