Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu - Pdf 28

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Thị Mỹ Hạnh NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
Chuyên ngành : Lí luận Văn học
Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHÙNG QUÍ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ
tận tình của PGS.TS Phùng Quí Nhâm cùng sự đóng góp ý kiến
của các Giáo sư – Tiến sĩ phản biện, các bạn đồng nghiệp.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu đó.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì khả năng và thời gian
có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của các Giáo sư –
Tiến sĩ và các bạn đồng nghiệp.

Người thực hiện
Võ Thị Mỹ Hạnh MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn học Việt Nam từ buổi sơ khai đến nay đã trải qua nhiều thời
kì. Mỗi thời kì đều để lại dấu ấn riêng với những tác giả tác phẩm sống mãi
trong lòng bao thế hệ độc giả. Hòa trong công cuộc đổi mới đất nước, văn học
sau 1975 cũng đổi mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết.
Nếu như nền văn học cách mạng của ta trong suốt ba mươi năm
(1954-1975)
đã khơi dậy và phát triển cao độ ý thức cộng đồng dân tộc mà cốt lõi là tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc, và ý thức giai cấp thì sau 1975; khi đất nước
hòa bình, cuộc sống đã trở lại với qui luật bình thường, con người lại trở về
với muôn mặt của đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề
trong một giai đoạn c
ó nhiều biến động, đổi thay đã thức tỉnh ý thức cá nhân;
đòi hỏi phải có sự quan tâm đến từng con người, từng số phận, văn học phải
đáp ứng nhu cầu đó. Do vậy, tiểu thuyết thời kì đổi mới có những chuyển biến
phong phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽ của tiểu thuyết

xã hội.
Trong quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc, Lê Lựu đã khẳng định
mình ở nhiều thể loại như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn… Thành
quả nghệ thuật của ông được khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải
nhì hội thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 1967-1968 (không có giải nhất) với
truyện ngắn Ngươi cầm súng, giải A cuộc thi viết về thương bi
nh của Hội nhà
văn, Bộ thương binh với truyện Người về đồng cói. Đặc biệt với giải thưởng
của Hội nhà văn dành cho Thời xa vắng, đã có hàng loạt bài phát biểu về tiểu
thuyết của ông. Có thể nói Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương
đương đại được nhiều nhà nghiên cứu qua
n tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự
thành công cho Lê Lựu? Có rất nhiều yếu tố, trong đó theo tôi không thể
không kể đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là nghệ
thuật trần thuật của ông. Tuy nhiên, ở góc độ thi pháp thì chưa có công trình
nghiên cứu một cách hệ thống tác phẩm của ông mà chỉ khai thác ở vài khía
cạnh trong các bài viết tản mác.
Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu không phải tất cả đều là đỉnh cao, là
kiệt tác nhưng nó c
ó sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì

khó mà dứt ra được hay nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những truyện xoàng xoàng,
người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một đoạn
tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật” [51,tr.80]. Lê Lựu có một
vị trí khá quan trọng trong thời kì đổi mới văn học, tác phẩm của ông xứng
đáng được nghiên cứu riêng biệt trong một công trình. Vì vậy, trong l
uận văn
này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức về Lí luận văn học và văn học
thời kì đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập để tìm hiểu,

kì thực vốn sống của ông vô cùng phong phú với kho tàng là sự trải đời lọc
lõi. Ông thuộc lớp nhà văn quân đội, ra đời và trưởng thành trong thời kì
chống Mĩ cứu nước. Người đọc biết đến tên Lê Lựu với tác phẩm trình làn
g
Tết làng mụa (1964). Sau đó là các truyện ngắn: Người cầm súng, Phía mặt
trời, Chuyện kể từ đêm trước… và đến Người về đồng cói thì ông đã thật sự
tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Đây cũng là tác phẩm đoạt giải trong cuộc
thi viết về thương binh của Hội nhà văn và Bộ thương binh. Hơi hướng tiểu
thuyết đã xuất hiện trong những t
ruyện ngắn của ông như dự báo một thành
công xa hơn nữa và mọi người vẫn khắc khoải mong chờ một tiếng vang, một
bước nhảy xa hơn nữa ở Lê Lựu. Không phụ lòng độc giả, quyển tiểu thuyết
đầu tiên của ông ra đời, đó là Mở rừng (1975). Đây là quyển tiểu thuyết đề tài
chiến tranh có thể nói là khá thà
nh công. Tác giả xây dựng hình ảnh một cuộc
chiến oai hùng nhưng cũng không kém phần bi thảm của các chiến sĩ Trường
Sơn. Tác phẩm đã phần nào tạo được dấu ấn riêng, mới mẻ. Trong thời điểm
bấy giờ, Mở rừng ra đời thể hiện một cách nhìn nhận hiện thực có phần
mạnh dạn của nhà văn so với xu thế thời đại là sự náo nức của lòng người

trước chiến thắng vang dội 1975. Tuy nhiên để có được Lê Lựu trong lòng
người đọc lúc bấy giờ và cho đến mai sau thì phải nói đến Thời xa vắng. Nó là
đứa con ngoan của nhà văn. Đứa con này đã đem đến nét mới mẻ thật sự đã
được nhen nhuốm từ Mở rừng. Cái Thời xa vắng rất gần ấy đã làm xôn xao dư
luận. Ở đâu cũng nghe thời xa vắng, ở đâu
cũng thấy Giang Minh Sài, thậm
chí Lê Lựu còn được gọi là cu Sài!
Lê Lựu thuộc kiểu nhà văn viết bền. Sau thành công của Thời xa vắng
ông không dừng lại, tự mãn mà vẫn đi tiếp con đường mình đã mở dù cho khá
chông gai, chông gai như bước chân của những chiến sĩ mở đường Trường

đang từ tuyến trước sang chuyện t
uyến sau, từ phía trong ra phía ngoài, từ nội
tâm trực tiếp qua lời người kể của người khác…” [102,tr. 215]. Văn của ông
không phải là kiểu văn dễ dãi quen thuộc, đọc qua một lần là có thể hiểu hết
các tầng ý nghĩa. Với mỗi lần tiếp xúc tác phẩm là một lần người đọc tìm
thêm một vấn đề nà
o đó. Những vấn đề đó được nhà văn giấu kín trong lời
văn của mình mà nói như Trần Đăng Khoa thì đó là “thứ văn không nhạt”,
ông nhận xét : “Lê Lựu biết cuốn hút người đời bằng một thứ văn không nhạt.
Ngay cả những truyện xoàng xoàng người đọc vẫn thu lượm được một cái gì
đấy , có khi là một chi tiết, một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách
nhâ
n vật.” [51, tr.80]. Cùng suy nghĩ với Trần Đăng Khoa, Đinh Quang Tốn
cũng cho rằng văn của “anh chàng nhà quê” có một sức hút vô hình bằng lời
văn mang phong cách riêng: “Văn anh không rành rẽ, không mạch lạc nhưng
có chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhiều khi cả đoạn cả trang cứ thùng thình
mà người đọc vẫn thấy thích, không ai chê vì người ta biết đấy là văn tự
nhiê
n của riêng anh, chứ không phải anh làm văn mà chê anh về văn phạm”
[93, tr.17]. Chính chất văn tự nhiên ấy đã đem đến cho chúng ta những trang
viết đặc sắc về những cảnh sinh hoạt của nông thôn miền Bắc; về hình ảnh
người lính trong chiến tranh, người lính trong thời bình. Nhìn nhận tiểu thuyết
thuyết Lê Lựu ở góc độ trần thuật, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại chú ý
đến câu văn, ông đặc biệt hứng thú với kiểu đặt câu của Lê Lựu, t
hừa nhận sự
thành công trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết không dừng lại ở lời văn
mạch lạc. Cũng như Đinh Quang Tốn, ông cho rằng Lê Lựu có văn phong
riêng : “Trong Thời xa vắng câu văn lùa thùa có khi mềm và rối như bún
nhưng lại rất được. Câu văn Lê Lựu là một sự thách đố với cách đặt câu quá


Giang Minh Sài nhưng mở ra rất nhiều vấn đề, tạo nên tính nhiều tầng bậc
cho câu chuyện. Người đọc có thể tìm thấy ở đó từ những vấn đề lớn lao đến
những vấn đề vụn vặt trong đời sống. Nguyễn Bích Thu viết : “Có lẽ to
chuyện qúa chăng? Nhưng Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hôn

phối đó, sự xen cài vào nhau đó: chiến tranh rồi hòa bình, nông thôn ra thành
phố, “nhà quê” và “kẻ chợ”… Không phải người viết đưa hai mảng ngẫu
nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau, mà gắn nối cài xen với nhau như là
sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử” [96].
Một đặc điểm nổi bật khác cũng được chú ý trong tiểu thuyết Lê Lựu
là chất giọng giễu nhại. Các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận sự thành công của
nhà văn khi sử dụng c
hất giọng trầm tĩnh và chất giọng giễu nhại để phản ánh
hiện thực. Nhận xét về một trong những yếu tố đem đến thành công cho Lê
Lựu trong Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng : “Cách nhìn
thấu đáo của anh, tấm lòng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn,
một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ đư
ợc vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan
không thêm bớt tô vẻ, đặc biệt không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp
phần đáng kể vào sức thuyết phục hấp dẫn của tác phẩm” [65]. La Khắc Hòa
thì cho rằng: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo.
Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như phóng đại hay
vật hóa hình ảnh c
on người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản thuật lại
những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được một hình tượng giễu
nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bông đùa, lúc lại xót xa,
chì chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nó”. {96, tr.66-
67}. Cũng đề cập tới giọng trần t
huật, Đỗ Tất Thắng nhận xét về thái độ của
nhà văn trong Thời xa vắng: “Lê Lựu phê phán một thời đã qua, mổ xẻ nó

bên ngoài theo thời gian tự sự chốn chiến trường máu lửa như một số tác
phẩm cùng thời và cả trước đó mà đi sâu khai thác những xung đột đầy kịch
tính của trái tim con người trong bối cảnh giã từ chiến tranh về hậu phương
thời hòa bì
nh”.
Từ những bài nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu đã mở ra cho người
viết hứng thú tìm hiểu vấn đề này. Học tập, kế thừa những bài viết có liên
quan đến sáng tác của Lê Lựu, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật
trần thuật trong tiểu thuyết của ông và phát triển nó thành bài nghiên cứu khoa
học trong luận văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu:

4.1 Phương pháp hệ thống:

Một trong những phương pháp bao trùm mà thi pháp học rất quan tâm là
phương pháp hệ thống. Vì vậy trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu này. Khi áp dụng phương pháp này vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu yêu cầu phải đặt từng yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết của ông vào hệ thống nghệ thuật trần thuật nói chung, trong tiến trình
chung của văn học dân tộc; phân tích những mối quan hệ giữa các yếu tố với
nhau
đồng thời đặt nó vào trong giai đoạn đổi mới văn học và trên tiến tình phát triển của
thể loại tự sự của văn học dân tộc.
4.2 Phương pháp phân tích :
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi có sử dụng một số
dẫn chứng để minh họa cho lập luận của mình. Do đó, phương pháp phân tích
được vận dụng để trình bày cặn kẽ vấn đề hoặc bình giá các vấn đề cụ thể
trong luận văn.
4.3 Phương
pháp thống kê:

CHƯƠNG I:
NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
1.1 Khái niệm người trần thuật trong loại hình tự sự:
Văn học vốn là t
hực thể tinh thần, tái hiện cuộc sống bằng nghệ
thuật ngôn từ. Hiện thực cuộc sống có thể được tái hiện qua những cảm xúc
tâm trạng, ý nghĩ của con người một cách trực tiếp bằng những lời lẽ, bộc
bạch tâm tình trong tác phẩm trữ tình. Cũng là phản ánh hiện thực cuộc sống
nhưng tác phẩm tự sự phản á
nh đời sống trong tính khách quan của nó. Hiện
thực được phản ánh sẽ do một người nào đó kể lại. Người kể lại đó được gọi
với nhiều tên gọi khác nhau như: người trần thuật, người kể chuyện, người
thuật chuyện, chủ thể kể chuyện … Dù được gọi bằng cách nào thì cũng đều
chỉ chung một chủ thể của người kể chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm
văn học, là người kể lại, dẫn lại, trần thuật lại câu chuyện… Trong luận văn
này người viết chọn cách gọi “người trần thuật”.
Người trần thuật là một yếu tố không t
hể thiếu trong loại hình tự sự.
Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm tự sự, ta giao tiếp với người trần thuật
thông qua những điều người trần thuật trình bày. Vì vậy, trong tá
c phẩm tự
sự, người trần thuật có ý nghĩa quan trọng. Người trần thuật có mặt ở mọi lúc,
mọi nơi trong câu chuyện, có thể xuất hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong
tác phẩm để kể lại diễn biến câu chuyện, phản ánh hành động, việc làm, tâm
trạng của nhân vật. Người trần t
huật xuất hiện với nhiều dạng khác nhau. Có
khi xuất hiện theo chiều hướng ngoại tức là đứng bên ngoài câu chuyện để
thuật lại câu chuyện cũng có khi người trần thuật xuất hiện theo chiều hướng
nội, tức là thâm nhập vào nội tâm nhân vật. Dù xuất hiện dưới dạng nào thì
cũng luôn in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, thể hiện tài năng nghệ thuật,

huật hay nhân vật người kể xưng tôi,
nhân vật hành động nói năng. Việc đánh đồng người trần thuật với tác giả là
một sai lầm cần khắc phục. Theo R.Bakhtin : “ Tác giả nằm ngoài thế giới
nhân vật, có thể nhập vào rồi thoát ra khỏi không gian- thời gian của nhân
vật. Tác giả ở trên ranh giới của thế giới do anh ta tạo ra. Lập trường của tác
giả có thể xác định qua cách mà anh ta miêu tả bề ngoài thế giới đó” [6
,

tr.126]. Không thể đồng nhất tác giả ngoài đời với người trần thuật. Người
trần thuật chỉ là một trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả.
Tác giả sáng tạo ra những người trần thuật để phát ngôn cho mình nhưng
không thể đồng nhất tác giả và người trần thuật trong tác phẩm. Nghiên cứu
tác giả trong mối quan hệ với người trần thuật phải thâm nhập vào thế giới
nghệ th
uật do nhà văn sáng tạo ra rồi từ đó nhìn ra lập trường, tư tưởng quan
điểm thẩm mĩ của nhà văn. Tác giả thường được nhận diện qua chính văn bản
nghệ thuật của mình. Tác giả và người trần thuật cùng hiện diện trong tác
phẩm nghệ thuật nhưng sự xuất hiện của tác giả thường là ẩn kín. Theo Trần
Đình Sử: “Tác giả k
hông bao giờ hiện diện trong tiểu thuyết như là một người
kể, một người phát ngôn mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái
tôi thứ hai của nhà văn với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá
trị trong tác phẩm hoặc là người nghe trộm kể. Người trần thuật là kẻ được
sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người kể đó
mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần thuật trong văn bản văn học là một
hình tượng phức tạp nhất mà ngôi kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ” {89,

tr.156}. Tìm hiểu người trần thuật cũng là cách chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật
của tác phẩm, làm cho thế giới đó sống dậy cụ thể và gợi cảm với những sự
vật, hiện tượng đời sống, những t

lại luôn biết chuyện, người trần thuật không xuất hiện trong câu chuyện
nhưng lại có mặt ở mọi nơi và biết hết mọi chuyện, mọi vấn đề kể cả tâm tư,
tình cảm của nhân vật. Trong truyện kể ngôi thứ ba tác giả vẫn cố giấu m
ình,
mặc dù câu chuyện là sản phẩm của chính mình. Tuy nhiên thông qua chủ thể
kể, người đọc vẫn nhận thấy được thái độ, tư tưởng tình cảm của tác giả thể
hiện ở các mức độ đậm nhạt khác nhau. Theo Đinh Trọng Lạc, ở dạng này,
“Người tường thuật không được biểu thị trong văn bản, dẫn dắt câu chuyện từ
ngôi thứ ba.Người trần thuật không thuộc vào
các nhân vật của tác phẩm
nghệ thuật, không tham gia vào hành động nghệ thuật mà chỉ đứng sau hành
động đó để quan sát”{59, tr.165}. Khi kể theo dạng này, tính khách quan của
hiện thực được phản ánh rất cao. Tuy nhiên, ở dạng này, người trần thuật ít để
lại những nét riêng biệt trong tác phẩm. Hình tượng người trần thuật rất mờ
nhạt đồng thời dễ dẫn đến sự đơn điệu trong cách kể. Do vậy, theo thời gian,
trong tiến trình phát triển của loại hình tự sự, k
iểu trần thuật này được các nhà

văn vận dụng tài tình, khéo léo với nhiều mức độ khác nhau tạo nên sự phong
phú, đa dạng cho lối trần thuật khách quan hóa.
1.2.1 Trần thuật hòa mình với nhân vật:
Đây là một trong những kiểu trần thuật khách quan hóa. Theo Đinh
Trọng Lạc, người đọc một mặt cố tách mình ra khỏi diễn biến của câu chuyện
nhưng mặt khác, khi cần thiết thì lại hòa mình vào với những nhân vật để phô
bày toàn bộ cái thế giới nội tâm của con người. Trong trường hợp này, người
trần thuật càng c
hứng tỏ mình là người “uyên bác”, có thể biết được mọi
chuyện trên đời, dù là trong ngõ ngách tâm hồn của nhân vật. Do không tham
gia trực tiếp vào biến cố truyện nên khi trần thuật theo kiểu khách quan hóa
điểm nhìn của người kể hết sức linh hoạt, không bị hạn chế bởi thời gian,

giác tẻ nhạt vì điểm nhìn được luân chuyển liên tục, người đọc có
thể đi từ
câu chuyện này sang câu chuyện khác, từ thế giới tâm hồn của nhân vật này
sang thế giới tâm hồn của nhân vật khác, thậm chí có thể tìm hiểu những cung
bậc tình cảm khác nhau của cùng một nhân vật mà không bị hạn chế bởi
không gian thời gian nào.
Tìm hiểu tiểu thuyết của Lê Lựu, ta thấy kiểu trần thuật này được ông
sử dụng khá nhiều trong “Thời xa vắng”, “Mở rừng”, “ Đại tá không biết
đùa”, “Chuyện làng Cuội”. Như trên đã trình bà
y, khi trần thuật theo hướng
khách quan hóa, lời kể của chủ thể chiếm địa vị đôc lập nên dễ làm cho lời
văn trở nên đơn điệu, buồn tẻ, làm hạn chế sức cuốn hút đối với người đọc.
Để tránh được điều này, tác giả Thời xa vắng chọn cách hòa mình vào nhân
vật. Thấy rõ nhất trong kiểu trần thuật hòa m
ình với nhân vật trong tiểu thuyết
Lê Lựu là điểm nhìn rất linh hoạt, không bị hạn chế bởi không gian, thời gian
nào. Câu chuyện của Thời xa vắng được kể lại với điểm nhìn hướng ngoại
bằng lời kể khách quan nhưng câu chuyện vẫn không tẻ nhạt bởi rất nhiều lần
người trần thuật hòa m
ình vào các nhân vật của mình để tiếng nói từ đáy lòng
nhân vật được cất lên. Câu chuyện mở đầu bằng những đoạn kể khách quan
về việc vợ con của cu Sài. Nhưng trong lời kể đó tác giả đã khéo léo hòa mình
vào những tâm tư tình cảm của nhân vật, chuyển điểm nhìn vào tâm trạng
nhân vật. Vì vậy, nhiều cung bậc tình cảm của nhân vật đến với người đọc

một cách tự nhiên. Người đọc thấy đồng cảm với tâm trạng của anh Tính, anh
của Sài một cách sâu sắc, khi mạch truyện được kéo ra theo dòng tâm tư của
nhân vật: “ Thật lòng, mỗi lần về qua nhà thấy thằng em vốn ham mê học
hành mà cứ mếu máo, nước mắt ngắn dài về cái tội “cùng ăn, cùng làm” và
trò chuyện với “vợ”, anh thấy tội nó quá…”. Lời là của người trần thuật,

thực lên hàng đầu để người đọc suy nghĩ, đối thoại với nhân vật. Người trần
thuật lúc bấy giờ không chỉ là người chứng kiến mà còn là người trong cuộc,
lời trần thuật đã trở thành lời của nhân vật, mang tâm tư, cảm xúc rất thật của
nhân vật làm cho người đọc tiếp nhận nó một cách thuyết phục. Xuyên suốt
tiểu thuyết Thời xa vắng, người đọc nhận t
hấy được sự chuyển cực liên tục từ
điểm nhìn ở nhân vật này sang nhân vật khác. Lúc được đặt ở Sài, lúc ở chính
ủy, lúc ở Tuyết lúc ở Hương… Do vậy, vấn đề được phản ánh xuất hiện ở
nhiều chiều tư tưởng khác nhau, ở những góc độ khác nhau tùy thuộc vào
điểm nhìn được đặt ở nhâ
n vật nào. Ở những tiểu thuyết Mở rừng, Hai nhà,
Sóng ở đáy sông, Chuyện làng Cuội cũng vậy. Nhà văn ít khi sử dụng lời trần
thuật vô can liên tục mà thường xuyên dịch chuyển điểm nhìn, hòa mình với
nhân vật, mở rộng biên độ không gian, thời gian cho câu chuyện.
Khi trần thuật hòa mình với nhân vật, Lê Lựu thường sử dụng lời văn
nửa trực tiếp, tức là lời kể thì vẫn là gián tiếp nhưng ngữ điệu, ý t
hức là của
nhân vật. Chẳng hạn, trong Hai nhà, người trần thuật sử dụng lời văn nửa
trực tiếp để hòa mình với nhân vật Tâm, nhập vào thế giới nội tâm của nhân
vật để thể hiện nỗi ấm ức của nhân vật: “Tại sao cô ấy đẻ mà cô ấy không
sợ? Chỉ có một mình mình phải sợ, chính l
à thế yếu để cô ấy lấn tới hành hạ
mình không bao giờ biết cái chỗ cần phải dừng lại. Biết cả đấy. Nhìn rõ ruột
gan, tâm tính cô ấy cả đấy , nhưng bất cứ việt gì đem ra cải nhau mình cũng
thua nên ức đến tận cổ mình vẫn cứ phải làm thinh”. Với lời văn nửa trực tiếp
này, người đọc cảm nhận được nỗi ấm ức của anh chàng nhu nhược; thiếu lập
trường; không có định hướng giải quyết những mâu thuẫn trong hôn nhân bởi
đã que
n sống theo kiểu nghe theo lời người khác; chỉ biết giải quyết mọi việc
bằng sự im lặng chịu đựng. Tác giả hòa mình vào những suy nghĩ, tâm trạng

lắng của Trường, một chiến sĩ hơn mười năm trời bám lấy núi rừng để chiến
đấu, không một lời oán than, không một lá thư về nhà nhưng nỗi nhớ nhà luôn
canh cánh bên lòng. Nhớ từng kỉ niệm thời thơ ấu, nhớ bóng dáng người yê
u,
nhớ mẹ già sớm hôm tần tảo… Tất cả trở thành kỉ niệm êm đềm nuôi dưỡng
tâm hồn người chiến sĩ, là điểm tựa để vượt qua bao gian lao thử thách của
cuộc chiến. Ở trường hợp này ta lại thấy có đối thoại trong độc thoại, Trường
đang độc thoại nhưng cũng là đối thoại với mẹ, với người yê
u đối thoại với
chính mình. Lời văn sẽ trở nên khô khan, khó để lại ấn tượng nếu người trần

thuật nói hộ cho nhân vật những tâm trạng này. Do vậy điểm nhìn đã được
dịch chuyển sang nhân vật một cách khéo léo. Tác giả đã khám phá thế giới
tâm hồn người chiến sĩ qua độc thoại nội tâm, dùng tiếng nói bên trong tâm
hồn nhân vật để bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật, khám phá “ con người
bên trong của nhân vật”. Chính sự hòa mình ấy tạo được sự thích thú cho
người đọc khi họ có thể cùng trải lòng với nhân vật.
Những sáng tác theo kiểu trần thuật khách qua
n hóa trước đây người
trần thuật thuờng ở ngoài câu chuyện với điểm nhìn hướng ngoại và cố định.
Người trần thuật đứng từ điểm nhìn bên ngoài với vai trò toàn năng có thể
biết hết tất cả mọi việc liên quan đến diễn biến của câu chuyện từ những mối
quan hệ của các nhân vật đến tâm
tư tình cảm của nhân vật mặc dù người trần
thuật vẫn luôn ẩn mình, hoàn toàn không lộ diện. Đặc biệt ở những truyện kể
dân gian ta có thể thấy người trần thuật hoàn toàn không để lại một dấu ấn
riêng biệt nào, tỏ ra không can dự vào câu chuyện mặc dù anh ta chính là
người điều khiển bên trong. Gần gũi hơn, trong loại hình tự sự của văn học
hiện đại, không phải là tất cả nhưng phần lớn sáng tác theo hướng trần thuật
khác

Hạnh, cảm thông, chia sẻ cùng cô.
Khi trần thuật dưới dạng này, người trần thuật thường tỏ ra “uyên bác”,
có thể biết rõ mọi chuyện, mọi việc ở mọi nơi, mọi lúc kể cả những nỗi lòng
sâu kí
n của nhân vật. Tác giả đã cố gắng thâm nhập vào trong ý thức lẫn tiềm
thức của nhân vật. Sự hòa mình của tác giả- người kể vào nhân vật đã khai
thác được tâm tư, tình cảm sâu kín của nhân vật. Đây là những dòng trần thuật
soi thấu tâm trạng nhân vật trong Mở rừng: “ Khuôn măt Ngà bỗng ngây dại
đi […]. Còn khuôn mặt non trẻ của Bình Nguyên cứ áp sát vào hai mắt chị
[…]
Hai chị em cùng lặng im. Chỉ nghe tiếng suối chảy ầm ầm xung quanh
như luồn dưới lớp mây mù mà chảy, chảy mãi […]. Không biết từ lúc nào, hai
hàng nước mắt Bình Nguyên trào ra, và mặt cho nó chảy ùa vào mồm, mặn
chát. Rồi thốt nhiên cô gục lên kêu hốt hoảng: -Ối mẹ ơi! Mẹ ơi, giời ơi!..”.
Người trần thuật tỏ ra “uyên bác”, có thể thấu được nỗi lòng hai cô gái
Trường Sơn giữa phút bình yên của núi rừng những ngày rực lửa ấy. Không
bom
đạn, không chết chóc nhưng lại là lúc lòng người đang dậy sóng. Giữa u
tịch vốn có của đại ngàn, hai cô gái Trường Sơn trở nên bé nhỏ, cô đơn và
lạnh lẽo, khác hẳn với hình ảnh hào hùng, không sợ bom đạn của kẻ thù khi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status