Giải pháp tài chính nhằm niêm yết cổ phiếu của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà nội trên thị trường chứng khoán - Pdf 29

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Lời nói đầu
Vốn là điều kiện không thể thiếu đợc để thành lập một doanh nghiệp, cũng
nh để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy
nhiên, tuỳ từng loại hình doanh nghiệp, trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
lại có những cách thức huy động vốn khác nhau đáp ứng cho nhu cầu của mình.
Có thể thấy rằng, hiện nay do thị trờng tài chính nhất là thị trờng chứng
khoán cha phát triển nên các doanh nghiệp Việt Nam thờng sử dụng cách thức
truyền thống đó là vay ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động của mình, hình
thức này đôi khi gây khó khăn, cản trở cho doanh nghiệp, nhất là những khoản
vốn vay lớn, vì ngân hàng luôn có một hạn mức tín dụng đối với từng doanh
nghiệp.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, và đặc biệt là sự phát triển hoàn
thiện của thị trờng tài chính, thị trờng chứng khoán thì đây là một kênh dẫn vốn
cực kỳ quan trọng cho các doanh nghiệp khi cần huy động vốn. Thị trờng chứng
khoán không những tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán mà nó còn phản
ánh một cách đầy đủ nhất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua thị giá của cổ phiếu đợc giao dịch trên thị trờng.
Công ty cổ phần Hàng hải Hà nội là Công ty đợc thành lập dựa trên sự góp
vốn tự nguyện của các thành viên để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh
của mình. Tuy đã có những kết quả đáng kể trong quá trình hoạt động nhng
hiện nay Công ty vẫn cha niêm yết trên thị trờng chứng khoán và Công ty đang
xúc tiến các biện pháp để đa cổ phiếu của mình ra niêm yết.
Trong thời gian thực tập ở Công ty, thông qua việc nghiên cứu và phân tích
về tình hình tài chính của Công ty, em muốn bằng kiến thức, lý luận của mình
đã học trong trờng đa ra áp dụng trong Công ty để trớc hết mô tả, đánh giá hoạt
động tài chính của Công ty, sau đó là đa ra các giải pháp để đáp ứng những yêu
cầu về tài chính nhằm đa cổ phiếu của Công ty ra niêm yết.
Niêm yết cổ phiếu trên thị trờng chứng khoán đối với một Công ty cổ phần
là điều cần thiết, vì khi thị trờng chứng khoán phát triển, nó không những giúp
cho Công ty huy động vốn nhanh, hiệu quả mà còn phản ánh toàn bộ hoạt động

Sản xuất cái gì? cho biết doanh nghiệp sẽ sản xuất hàng hoá, dịch vụ gì cho
thị trờng, chất lợng và số lợng nh thế nào?
Sản xuất nh thế nào? cho biết doanh nghiệp sẽ sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ
của mình với những nguồn lực nào, công nghệ sử dụng là gì?
Sản xuất cho ai? Xác định đối tợng tiêu thụ hàng hoá dịch vụ của doanh
nghiệp.
Một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động luôn luôn phải đối mặt với
những môi trờng xung quanh, đó là: doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công
nghệ, sự phát triển của công nghệ; doanh nghiệp là đối tợng quản lý của Nhà n-
ớc; doanh nghiệp phải đối mặt với các rủi ro về kinh tế, chính trị, xã hội đặc biệt
là rủi ro về tài chính; doanh nghiệp luôn phải đáp ứng đợc những đòi hỏi của
các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn... Vì thế, một doanh nghiệp
muốn phát triển bền vững thì đòi hỏi bản thân doanh nghệp phải thích nghi với
môi trờng đó, dự đoán sự thay đổi của nó và phải tìm cách để làm chủ trớc nó.
Trên cơ sở khái niệm cơ bản về doanh nghiệp ngời ta đa ra khái niệm về tài
chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp đợc hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp
với các chủ thể trong nền kinh tế, bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nớc: thể hiện ở nghĩa vụ nộp thuế của
doanh nghiệp với Nhà nớc hoặc khi Nhà nớc góp vốn vào doanh nghiệp.
Tống Thị Đan - TC42D Trang 3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trờng tài chính: thể hiện khi doanh
nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ trên thị trờng này.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trờng khác nh: thị trờng cung cấp hàng
hoá dịch vụ đầu vào cho doanh nghiệp, thị trờng sức lao động cung cấp nguồn
nhân lực cho doanh nghiệp.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đó là quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất - kinh doanh, giữa cổ đông và nhà quản lý, cổ đông và chủ nợ, giữa quyền
sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Quan hệ nay thể hiện thông qua hàng loạt


Dòng vật chất Dòng tiền
đi ra đi vào
Nh ta đã biết, các quan hệ tài chính của doanh nghiệp đợc phát sinh khi
doanh nghiệp thực hiện những hoạt động trao đổi với thị trờng cung cấp hàng
hoá, dịch vụ đầu vào hoặc với thị trờng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần phải dựa trên hai khái
niệm cơ bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích lũy ban đầu
những hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay
đổi khối lợng tài sản từ tích lũy của doanh nghiệp. Một khối lợng tài sản, hàng
hoá hoặc tiền đợc đo tại một thời điểm nhất định là khoản dự trữ. Quan hệ giữa
dòng và dự trữ là cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp
2.2. Nội dung cơ bản về quản lí tài chính doanh nghiệp.
Quản lí tài chính luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động quản lí của
doang nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh.
Quản lí tài chính là sự tác động của nhà quản lí tới các hoạt động tài
chính của doanh nghiệp, nó đợc thể hiện qua cơ chế quản lí tài chính doanh
nghiệp.
Nội dung quản lí tài chính dợc tập chung vào ba vấn đề lớn sau:
Thứ nhất: nên đầu t dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại
hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Vấn đề này liên quan đến phần tài sản của
bảng cân đối kế toán và là cơ sở để dự toán vốn đầu t, đó là quá trình kế hoạch
hoá và quản lí đầu t dài hạn của doanh nghiệp. Quá trình này đòi hỏi nhà quản
lí tài chính phải tìm kiếm cơ hội đầu t sao cho thu nhập lớn hơn chi phí bỏ ra,
hơn thế họ còn phải đánh giá đợc thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong tơng
lai chứ không chỉ là chỉ quan tâm tới việc sẽ nhận đợc bao nhiêu tiền.
Thứ hai: Nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể khai thác là những nguồn
nào? Để đầu t hay hình thành nên các tài sản đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm
nguồn cho mình. Những nguồn này dợc liệt kê ở bên phải của bảng cân đối kế

trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần đảm bảo mức ngân quỹ
tối thiểu để thực hiện chi trả. Do vậy, điều dáng quan tâm ở các doanh nghiệp là
các dòng tiền chứ không phải là lợi nhuận kế toán. Dòng tiền ra và dòng tiền
vào đợc tái đầu t phản ánh tính chất thời gian của lợi nhuận vá chi phí. Hơn nữa,
khi đa ra quyết định kinh doanh, nhà doanh nghiệp cần tính đến dòng tiền tăng
thêm, đặc biệt cần tính đến các dòng tiền sau thuế.
Nguyên tắc sinh lời:
Tống Thị Đan - TC42D Trang 6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Nguyên tắc quan trọng đối với nhà quản lí tài chính không chỉ là đánh
giá các dòng tiền mà dự án mang lại mà còn tạo ra các dòng tiền, tức là tìm
kiếm các dự án sinh lợi trong thị trờng cạnh tranh, nhà đầu t khó có thể tìm
kiếm đợc nhiều dự án tốt. Muốn vậy, cần phải biết các dự án sinh lợi tồn tại nh
thế nào và ở đâu trong môi trờng cạnh tranh. Tiếp đến, khi đầu t, nhà đầu t phải
làm giảm tính cạnh tranh của thị trờng thông qua việc tạo ra những sản phẩm
thông qua việc tạo ra những sản phẩm khác biệt với sản phẩm cạnh tranh và
đảm bảo mức chi phí thấp hơn chi phí cạnh tranh.
Nguyên tắc thị trờng có hiệu quả:
Thị trờng hiệu quả là thị trờng mà ở đó giá trị của các tài sản tại bất kỳ
một thời điểm nào đó đều phản ánh một cách đầy đủ các thông tin một cách
công khai. Trong thị trờng hiệu quả, giá cả của chứng khoán, nhất là giá cổ
phiếu của doanh nghiệp giao dịch trên thị trờng đợc xác định một cách chính
xác, thị giá của cổ phiếu phản ánh tất cả nhng thông tin sẵn có và công khai về
giá trị của một doanh nghiệp. Vì vậy, bằng cách nghiên cứu tác động của các
quyết định tới thị giá cổ phiếu trong những điều kiện nào đó có thể đạt đợc mục
tiêu tối đa hoá giá trị của các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Nguyên tắc gắn lợi ích của nhà quản lí với lợi ích của các cổ đông:
Nhà nớc quản lí tài chính chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hoá tài
chính, quản lí ngân quỹ, chi tiêu cho đầu t và kiểm soát, đồng thời nhà quản lí
tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thờng đa ra quyết

lu chuyển tiền tệ (Báo cáo ngân quỹ).
Bảng tổng kết tài sản là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó, nó phản ánh tất cả tài sản
do doanh nghiệp sở hữu và những nguồn vốn để hình thành tài sản đó.
Chính vì vậy, bảng tổng kết tài sản của một doanh nghiệp thờng bao gồm
hai phần: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh
nghiệp đó. Tài sản thờng bao gồm hai loại là tài sản lu động và tài sản cố định,
nguồn vốn thờng bao gồm Nợ và Vốn chủ sở hữu.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán đợc sắp xếp theo khả năng
chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản: Tài sản lu động (tiền và các chứng khoán ngắn hạn dễ bán;
khoản phải thu; dự trữ); tài sản tài chính; tài sản cố định hữu hình và vô hình.
Bên nguồn vốn: Nợ ngắn hạn (nợ phải trả nhà cung cấp; các khoản phải
nộp; phải trả khác; nợ ngắn hạn ngân hàng thơng mại và các tổ chức khác); Nợ
dài hạn và Vốn chủ sở hữu.
Từ bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết đợc loại hình doanh
nghiệp, quy mô và mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp, đánh giá đợc khả
Tống Thị Đan - TC42D Trang 8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của
doanh nghiệp đó.
1.2. Báo cáo kết quả kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt
động của doanh nghiệp trong tơng lai.
Trên cơ sở doanh thu và chi phí có thể xác định đợc kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong một năm (lãi, lỗ).
Nh vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh tình hình tài chính của một
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Những khoản mục chủ yếu phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh bao

Sự thiếu hụt về khả năng thanh khoản có thể đa doanh nghiệp tới chỗ không
thể hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và có thể phải ngừng hoạt động.
Sự không đảm bảo khả năng thanh toán có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng
nh:
- Đối với doanh nghiệp: Sự thiếu hụt tài chính sẽ hạn chế sự phát triển nh:
không cho phép doanh nghiệp tận dụng cơ hội hay việc mua nguyên vật liệu
đầu vào với giá hấp dẫn, hoặc doanh nghiệp sẽ không đợc hởng chiết khấu mua
theo giá buôn...
- Đối với chủ nợ: Khả năng thanh toán xấu có thể dẫn tới chậm trễ trong
việc trả tiền lãi và gốc cho chủ nợ. Thậm chí chủ nợ có thể bị mất một phần về
nợ phải thu.
- Đối với khách hàng của doanh nghiệp: Các điều kiện bán chịu cho khách
hàng có thể bị sửa đổi...
Do vậy, nếu một doanh nghiệp gặp khó khăn trong khả năng thanh toán sẽ
gây ra cho doanh nghiệp đó bất ổn về tài chính và nguy cơ phá sản.
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trờng,
nhất là trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc doanh nghiệp đó
chiếm dụng vốn của những doanh nghiệp khác và bị doanh nghiệp khác chiếm
dụng vốn là không thể tránh khỏi. Hoạt động này biểu hiện cả những mặt tích
cực và mặt tiêu cực. Xu hớng của các doanh nghiệp là tăng chiếm dụng vốn của
doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần phải cân đối giữa hai khoản
này để đảm bảo một tình hình tài chính lành mạnh và ổn định.
Sự chiếm dụng vốn lẫn nhau này của các doanh nghiệp đợc thể hiện ở các
khoản phải thu, phải trả. Những thay đổi trên hai khoản mục này có ảnh hởng
lớn đến khả năng thanh toán của một doanh nghiệp. Vì vậy, trớc khi xem xét
tình hình thanh toán của doanh nghiệp, ta xem xét đến hai khoản mục này:
Với các khoản phải thu:
Tống Thị Đan - TC42D Trang 10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Đợc hiểu là những khoản vốn mà doanh nghiệp đang bị các đơn vị khác

nguồn vốn với chi phí thấp mà lẽ ra có thể chiếm dụng đợc.
Do đó, cũng phải so sánh chúng với nhau giữa các năm và so sánh với
những khoản phải thu để cân đối giữa chúng.
Các khoản phải trả bao gồm:
Tống Thị Đan - TC42D Trang 11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
- Phải trả cho ngời bán
- Ngời mua trả tiền trớc
- Thuế và các khoản phải nộp ngân sách
- Phải trả công nhân viên
- Khoản phải trả, phải nộp khác
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán:
Đây là chỉ tiêu đầu tiên đánh giá tính lành mạnh,ổn định tài chính của một
doanh nghiệp. Bao gồm:
Khả năng thanh toán hiện hành: Đợc đo bằng tỷ lệ giữa tài sản lu
động và nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lu động bao gồm: Tiền, chứng khoán dễ chuyển nhợng (tơng đơng
tiền), các khoản phải thu và hàng tòn kho. Còn nợ ngắn hạn thờng bao gồm vay
ngắn hạn ngân hàng, khoản phải trả nhà cung cấp, khoản phải trả, phải nộp
khác.
Tỷ số này là thớc đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó
cho biết mức độ các khoản nợ ngắn hạn của các chủ nợ ngắn hạn đợc trang trải
bằng các tài sản dễ chuyển thành tiền trong một giai đoạn tơng đơng với thời
hạn của tài khoản nợ đó.
Tỷ số này càng lớn thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
càng cao. Tuy nhiên cao bao nhiêu là tốt thì cần đợc so sánh với tỷ lệ trung bình
ngành và so sánh với các năm trớc đó hoặc với các doanh nghiệp cùng ngành.
Nếu tỉ số này quá cao có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu t quá nhiều vào tài sản
lu động hay đơn giản là viêc quản lý tài sản lu động của doanh nghiệp là không

toán.
Ngoài ra, để đánh giá khả năng thanh toán của một doanh nghiệp nhà quản
lý cần phải quan tâm tới chỉ tiêu về Vốn lu động ròng đợc xác định = Tài sản
cố định - nợ ngắn hạn = nguồn dài hạn - Tài sản cố định
* Tỷ lệ dự trữ trên vốn lu động ròng:
Đợc xác định bằng cách chia dự trữ (tồn kho) cho vốn lu động cho vốn lu
động ròng.
Tỷ lệ dự trữ trên vốn lu động ròng =
Tỷ lệ này cho biết phần thua lỗ mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu do
giá trị hàng dự trữ giảm. Nó liên quan đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài chính cũng nh
cơ cấu tài sản lu động doanh nghiệp.
Sau khi xác định các chỉ tiêu trên doanh nghiệp tiến hành phân tích chi
tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh
toán của doanh nghiệp trớc mắt và triển vọng trong thời gian tới theo mẫu sau:
Tống Thị Đan - TC42D Trang 13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Nhu cầu thanh toán Khả năng thanh toán
Chỉ tiêu Năm
N-2
Năm
N-1
Năm
N
Chỉ tiêu Năm
N-2
Năm
N-1
Năm
N
A. Các khoản


2.2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn:
Chúng ta biết rằng, việc sử dụng Nợ làm gia tăng tiềm năng tạo ra lợi
nhuận do tác động của đòn bẩy tài chính, đồng thời cũng làm gia tăng rủi ro cho
chủ nợ và các chủ sở hữu, bởi vì khi hệ số nợ quá cao thì khả năng vỡ nợ của
doanh nghiệp càng cao, nguy cơ không thu hồi đợc nợ tăng và mức độ tự chủ tài
chính của doanh nghiệp thấp, có thể còn dẫn đến phá sản cho doanh nghiệp.
Chính vì thế, chỉ tiêu này rất quan trọng để đánh giá một sự ổn định về tài
chính, khả năng tự chủ trong kinh doanh của một doanh nghiệp. Một cơ cấu vốn
hợp lý sẽ đảm bảo tự chủ về tài chính và gia tăng giá trị của các chủ sở hữu
doanh nghiệp.
Chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn đợc dùng để đo lờng phần vốn góp của
các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ của doanh
nghiệp. Nó bao gồm các chỉ tiêu sau:
Hệ số nợ trên tổng Tài sản: Đợc tính bằng cách chia tổng số Nợ cho
tổng Tài sản.
Hệ số nợ trên tổng tài sản =
nSả Tài Tổng
Nợ Tổng
Tỷ lệ này đợc dùng để đo lờng sự đóng góp vốn của chủ doanh nghiệp so
với nợ vay. Khi tỷ lệ này cao, có nghĩa là chủ doanh nghiệp chỉ đóng góp một
phần nhỏ trên tổng nguồn vốn và nh vậy rủi ro trong kinh doanh một phần đợc
chuyển sang cho các chủ nợ. Tuy nhiên chủ nợ sẽ đợc hởng phần bù rủi ro lớn,
Tống Thị Đan - TC42D Trang 14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
đợc phản ánh dới dạng lãi suất hoặc lợi tức. Còn các chủ doanh nghiệp có thể
kỳ vọng vào lợi nhuận trong tơng lai cao.
Nếu tỷ lệ nợ càng cao thì độ an toàn trong kinh doanh kém bởi một khoản
vay đến hạn mà doanh nghiệp cha chuẩn bị trả đợc rất bất lợi cho doanh nghiệp
bởi doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, thậm chí dẫn

Tống Thị Đan - TC42D Trang 15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Khi xem xét về khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp cần phải tính đến
chỉ tiêu về khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi.
Tỷ lệ này đợc tính bằng cách chia lợi nhuận trớc thuế và lãi vay cho lãi
vay. Chi phí trả lãi là một khoản chi tơng đối ổn định và có thể tính toán trớc.
Khoản tiền mà doanh nghiệp dùng để chi trả lãi vay là thu nhập trớc thuế và trả
lãi. Bởi vậy, tỷ lệ này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng thu nhập trớc
thuế của doanh nghiệp.
Thu nhập trớc thuế và lãi vay phản ánh số tiền mà doanh nghiệp có thể
sử dụng để trả lãi vay. Nếu khoản tiền này quá nhỏ hay có giá trị âm, thì doanh
nghiệp khó có thể trả đợc lãi. Mặt khác tỷ số này cũng thể hiện khả năng sinh
lời trên các khoản nợ của doanh nghiệp.
Chi phí trả lãi bao gồm tiền trả lãi cho các khoản vay ngắn hạn, trung,
dài hạn và tiền lãi của các hình thức vay mợn khác nh trả lãi trái phiếu, kỳ
phiếu.
Gánh nặng tài chính mà doanh nghiệp phải đơng đầu cho việc sử dụng
nợ để tài trợ cho sản xuất - kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào khả năng tạo ra lợi
nhuận để chi trả cho lãi tiền vay hàng năm. Do đó, tỷ lệ này cho biết mức độ lợi
nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm nh thế nào. Nếu doanh nghiệp không
trả đợc khoản nợ này có thể dẫn tới khả năng bị phá sản.
2.3. Nhóm chỉ tiêu và khả năng hoạt động.
Tài sản và quản lí tài sản là một trong những vấn đề quan trọng nhất đối
với quản lí tài chính doanh nghiệp bởi tài sản đợc hình thành từ nguồn vốn của
doanh nghiệp, hơn thế nữa công tác quản lí tài sản ảnh hởng rất lớn đến khả
năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn và mức cân bằng tài chính của doanh
nghiệp.
Do đó, ngời ta sử dụng chỉ tiêu về tài sản và các chỉ tiêu doanh thu để
đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
* Vòng quay tiền:

Tỷ số này cho biết: Trung bình bao nhiêu ngày thì doanh số bán chịu
những khoản phải thu mới đợc thanh toán hay thời gian trung bình từ khi bán
hàng, cung cấp dịch vụ đến khi nhận đợc tiền là bao nhiêu ngày.
Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận
không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh
toán.
Chỉ tiêu này cũng phải đợc so sánh giữa các năm, so sánh với mức
trung bình nghành để đánh giá và đa ra chính sách tín dụng thơng mại hợp lý
tránh hiện tợng ứ đọng vốn trong thanh toán và có biện pháp quản lí với những
khoản thu khó đòi.
Hệ số cơ cấu tài sản: Là tỷ lệ giữa tài sản lu động hoặc tài sản cố định
với tổng tài sản. Hệ số này đợc sử dụng để đánh giá cơ cấu của các loại tài sản
Tống Thị Đan - TC42D Trang 17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
trong doanh nghiệp. Nhìn vào hệ số này có thể cho chúng ta dự đoán đợc doanh
nghiệp mà mình phân tích hay nghiên cứu là doanh nghiệp thơng mại hay
doanh nghiệp sản xuất. Qua đó có thể đánh giá đợc sự đầu t vào tài sản của
doanh nghiệp đã thích hợp hay cha.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Chỉ tiêu này còn đợc gọi là vòng quay của toàn bộ tài sản, nó đợc đo bằng
tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản mang lại bao
nhiêu đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng Tài sản =
nSả Tài Tổng
thuần thu Doanh
Để chính xác chỉ tiêu, ta dùng Tổng Tài sản bình quân là bình quân số
học của tổng tài sản có ở đầu và cuối năm.
Chỉ tiêu này rất quan trọng và ảnh hởng lớn đến ROE của doanh nghiệp,
chỉ tiêu này càng cao thể hiện quản lý tài sản của doanh nghiệp tốt.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (TSCĐ):

nghiệp hay tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận trớc thuế của doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa doanh
thu và chi phí bỏ ra để đạt đợc doanh thu đó. Lợi nhuận đạt đợc càng cao, doanh
nghiệp càng khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình trên thị trờng. Tuy nhiên,
nếu chỉ thông qua chỉ tiêu lợi nhuận thì cha chắc đã tơng xứng với chi phí bỏ ra,
với khối lợng tài sản mà doanh nghiệp đã sử dụng hoặc mức độ rủi ro cao. Do
đó, các nhà phân tích thờng bổ sung thêm những chỉ tiêu tơng đối trong mối
quan hệ giữa lợi nhuận với doanh thu đạt đợc, với tổng vốn mà doanh nghiệp đã
sử dụng hoặc với vốn chủ sở hữu mà chủ doanh nghiệp đã bỏ ra.
Các chỉ tiêu đợc sử dụng để đánh giá khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp bao gồm:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm:
Là tỷ lệ đợc xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
thuần thu Doanh
thuế sau nhuận Lợi
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trớc thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp
Tỷ số này phản ánh một đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến động về hiệu quả hay ảnh
hởng của các chiến lợc tiêu thụ, nâng cao chất lợng sản phẩm.
Khi chỉ tiêu này cao thể hiện hai khả năng:
Tống Thị Đan - TC42D Trang 19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
- Chi phí của doanh nghiệp giảm làm lợi nhuận tăng lên. Điều này là tốt
cho doanh nghiệp
- Do giá bán sản phẩm của doanh nghiệp tăng, nếu cạnh tranh không đổi
thì cha phải là tốt bởi vì sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE):
Đợc xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó đo
lờng mức lợi nhuận trên mức đầu t của các chủ sở hữu vào doanh nghiệp.

tăng huy động vốn từ bên ngoài để tài trợ cho tài sản của mình.
Nh vậy, có ba nhân tố tác động lên ROE đó là: Khả năng tăng doanh thu,
công tác quản lí chi phí; quản lí tài sản và đòn bẩy tài chính. Bất cứ hoạt động
nào mà nhà quản lí làm để nâng cao các hệ số này đều làm tăng ROE.
* Doanh lợi tài sản (ROA):
ROA =
TS
TNST
ROA =
TS
DT
*
DT
TNST
TS
TNST
=
Tống Thị Đan - TC42D Trang 20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất đợc dùng để đánh giá khả năng sinh lợi
của một đồng vốn đầu t. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà mỗi doanh nghiệp
đợc phân tích và phạm vi so sánh mà ta sẽ sử dụng thu nhập trớc thuế và lãi
hoặc thu nhập sau thuế so với tổng tài sản.
ROA là công cụ cơ bản đo lờng tính hiệu quả của việc phân phối và quản lí
nguồn lực ở doanh nghiệp. Nó khác ROE ở chỗ nó biết tỷ lệ lợi nhuận mang lại
cho cả chủ sở hữu doanh nghiệp và chủ nợ, trong khi ROE chỉ biết lợi nhuận
mang lại cho cả chủ sở hữu doanh nghiệp, do vậy tăng ROA cũng rất cần thiết
đối với các nhà quản lí doanh nghiệp.
Trên đây là các chỉ tiêu thể hiện toàn bộ hoạt động tài chính trong một
doanh nghiệp, mặc dù mỗi tỷ số tài chính đợc phản ánh đợc trên những giá trị

Ta có thể biểu diễn mối quan hệ vốn lu động ròng nh sau:
Vốn lu động ròng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá điều kiện cân
bằng tài chính. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh và nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc
phần lớn và vốn lu động ròng. Hơn thế nữa, mức độ an toàn của các tài sản ngắn
hạn phụ thuộc vào mức độ của vốn lu động ròng.
Nếu vốn lu động ròng > 0 điều này có nghĩa:
Nguồn dài hạn > tài sản cố định hay tài sản lu động > nguồn ngắn hạn
Nguồn dài hạn d thừa để đầu t cho tài sản cố định do đó phần d thừa này
đợc sử dụng để đầu t cho tài sản lu động. Nh vậy tài sản cố định của doanh
nghiệp đợc tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn, đồng thời do vốn lu động
ròng lớn hơn không nên tài sản lu động lớn hơn nợ ngắn hạn do vậy khả năng
thanh toán của doanh nghiệp tốt. Sự lành mạnh, ổn định về tài chính của doanh
nghiệp đợc đảm bảo.
Nếu vốn lu động ròng = 0, nghĩa là: Tài sản cố định bằng nguồn
dài hạn hay tài sản lu động bằng nguồn ngắn hạn, có nghĩa là nguồn dài hạn vừa
đủ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lu động vừa đủ để tài trợ cho nợ ngắn
Tống Thị Đan - TC42D Trang 22
Tài sản

Nguồn vốn
A. Tài sản lu
động và đầu t
ngắn hạnTài sản
ngắn hạn
hay tài sản lu động < nguồn ngắn hạn.
Nguồn dài hạn không đủ để đầu t cho tài sản cố định, do đó
doanh nghiệp phải đầu t một phần cho tài sản cố định bằng nguồn vốn ngắn
hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị mất thăng bằng, doanh nghiệp
phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán cho nợ ngắn hạn. Nh ta đã
biết, tài sản cố định là những tài sản có tính thanh khoản không cao do vậy
chúng rất khó có thể chuyển thành tiền trong một thời gian ngắn để thanh toán
cho các khoản nợ ngắn hạn. Do vậy để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn thì
doanh nghiệp phải thanh lý tài sản cố định với giá thấp hoặc doanh nghiệp phải
huy động thêm nguồn vốn ngắn hạn để trả nợ điều này đối với doanh nghiệp là
khó khăn.
Cho nên khi vốn lu động ròng nhỏ hơn không dễ gây nên những bất ổn về
tài chính cho doanh nghiệp, giảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp và
tình hình tài chính nh vậy thì không phải là lành mạnh và ổn định.
Nh vậy nghiên cứu về vốn lu động ròng sẽ cho ta biết hai điề cốt yếu
sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn hay không?
Thứ hai: Tài sản của doanh nghiệp có đợc tài trợ vững trắc bằng nguồn dài
hạn hay không?
Để nghiên cứu tình hình đảm bảo nguồn vốn do hoạt động kinh doanh,
ngoài việc nghiên cứu vốn lu động ròng, ngời ta còn sử dụng chỉ tiêu về nhu cầu
vốn lu động ròng.
Nhu cầu vốn lu động ròng là lợng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài
trợ cho một phần tài sản lu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (Tài
sản lu động không phải là tiền)
Nhu cầu vốn lu động ròng = tồn kho và các khoản phải thu - nợ ngắn hạn
Trên thực tế có thể xảy ra những trờng hợp sau đây:
* Nhu cầu vốn lu động ròng > 0: tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn
hơn nợ ngắn hạn. Tại đây sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn nguồn

Do đó: Doanh nghiệp cần tăng nguồn dài hạn, giải phóng hàng tồn kho
và tăng các khoản phải thu để trả nợ ngắn hạn và giảm đầu t dài hạn.
Nh vậy để đảm bảo cho nguồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh, đảm bảo
sự lành mạnh về tài chính của doanh nghiệp, trớc tiên phải có vốn lu động ròng
lớn hơn hoặc bằng không có nghĩa là đảm bảo tài trợ tài sản cố định bằng nguồn
vốn dài hạn. Nếu nhu cầu vốn lu động ròng lớn hơn không phải tìm cách giảm
hàng tồn kho, tăng thu từ các khoản phải thu ở khách hàng, nếu nhu cầu vốn lu
động ròng nhỏ hơn không cần hạn chế vay ngắn hạn bên ngoài.
Tống Thị Đan - TC42D Trang 24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc Dân
4. Thông qua phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn để đánh
giá hoạt động tài chính của doanh nghiệp:
Qua phân tích nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn ngời ta xem xét sự thay
đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong kỳ
theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán.
Thông qua quá trình phân tích, một câu hỏi đợc đặt ra là: Vậy nguồn vốn
đợc sử dụng đã hợp lí cha, những nguồn tạo đợc có đem lại an toàn cho doanh
nghiệp khi sử dụng hay không?
Để có đợc câu trả lời, ta sẽ phân tích nguồn và sử dụng nguồn theo bảng
kê dới đây:
Muốn lập đợc bảng trên, trớc hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mua
trong bảng cân đối kế toán đầu kỳ và cuối kỳ. Một sự thay đổi đợc phân biệt ở
hai cột:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn
giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng nguồn.
- nếu tài sản bên khoản mục giảm hoặc khoản mục bên nguồn vốn
tăng thì điều đó thể hiện viêc tạo nguồn.
5. vai trò lành mạnh, ổn định và tự chủ về tài chính đối với doanh
nghiệp:
Sự lành mạnh, ổn định, tự chủ về tài chính trong doanh nghiệp đóng góp


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status