GIẢNG DẠY TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DƯỚI GÓC NHÌN CỦA THI PHÁP HỌC - Pdf 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG GIẢNG DẠY TRUYỆN NGẮN LỖ
TẤN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG DƯỚI GÓC NHÌN CỦA THI
PHÁP HỌC Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong thư chúc mừng gửi các thầy cô giáo và học sinh, sinh viên cả nước nhân
dịp khai giảng năm học mới 2003-2004, chủ tịch nước Trần Đức Lương chỉ thị :

nghiên cứu dịch thuật góp nhiều công lao cho nền văn học hiện thực mới. Tác phẩm
cuả ông luôn giúp ta khám phá ra những ý nghiã tích cực, đằm thắm, nồng nàn
trong tình yêu thương và sự căm giận. Bởi thế văn chương Lỗ Tấn sống mãi trong
nhịp đập trái tim của mọi dân tộc có cùng hướng đi.
Có thể nói, di sản văn chương Lỗ Tấn để lại có một tầm
vóc khổng lồ, bao
gồm rất nhiểu thể loại khác nhau : tạp văn, kịch, thơ, truyện. Nhưng có lẽ đậm đà và
thể hiện rõ phong cách, tư tưởng, tài năng và mục đích sáng tác cuả ông hơn cả là
mảng truyện ngán . Ở thể loại này, dù dung

lượng nhỏ, ít lời nhưng dồn nén, chất
chứa bao suy tư trăn trở của nhà văn trên hành trình tìm đường cho dân tộc Trung
Hoa đang héo úa, lụi tàn dưới sức nặng 4000 năm lịch sử cuả ý thức hệ phong kiến.
Thiết nghĩ, việc đưa truyện ngan cuả Lỗ Tấn vào giảng dạy ở phổ thông là cần
thiết bởi những tác phẩm cuả ông không chỉ có giá trị cao về mặt nột dung và nghệ
thuật, m
à còn vì tác giả của chúng là một tấm gương sáng cho lòng trung thành thuỷ
chung với dân tộc Trung Hoa, một gương mặt tiêu biểu đại diện cho một thời đại
thăng trầm trăn trở và vươn lên.
Thực tế cho thấy ở phổ thông khi giảng dạy Văn học nước ngoài nói chung, tác
phẩm Lỗ Tấn nói riêng, đa số giáo viên rất ngại dạy. Dường như trong chương
trình,Văn học nước ngoài vẫn c
òn là vùng đất thiêng với cả

giáo viên và học sinh.
Phải chăng sự cách biệt về văn hoá, về ngôn ngữ là một rào cản khiến Văn học nước
ngoài ít được chủ động đón nhận ở phổ thông?
Có thể nói, giảng dạy Văn học nước ngoài nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn

nói


2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Nghiên cứu, tìm hiểu về nhà văn Lỗ Tấn, cũng như đề xuất những phương
hướng khám phá vẻ đẹp trong các truyện ngắn của ông là một công việc khá lý thú
nhưng cũng không đơn giản. Đề tài Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường
Trung học phổ thông dưới góc nhìn cuả thi pháp học, nói chung chưa có công
trình nào đi vào nghiên cưú một cách trực tiếp, cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên đối với
một số truyện ngắn của Lỗ Tấn c
ó trong khuôn khổ cuả đề tài này và những vấn đề
liên quan trực tiếp đến phương pháp giảng dạy văn học nói chung thì cũng đã có
khá nhiều công trình, bài viết cuả nhiều nhà nghiên cứu. Vì Lỗ Tấn là một nhà văn
nước ngoài nên những tài liệu nghiên cứu về ông của các học giả nước ngoài, đặc
biệt là Trung Quốc cũng sẽ không ít. S
ong do phạm vi đề tài, chúng tôi không thể
khảo sát hết được những công trình ấy, mà chỉ chú trọng vào những công trình
nghiên cưú chính của các tác giả trong nước có liên quan trực tiếp đến

đề tài. Trên
tinh thần ấy chúng tôi mạn phép chia những tác phẩm, những bài viết đã chọn lọc
thành hai nhóm lớn theo góc độ phạm vi đối tượng nghiên cứu và phương pháp
giảng dạy :
 Nhóm thứ nhất : những bài viết, bài nghiên cứu về Lỗ Tấn và một số truyện
ngắn cuả ông được giảng dạy ở phổ thông (Thuốc , AQ chính truyện, Cố hương).
Chẳng hạn : Anh Đức có bài viết Lỗ Tấn , bậc thầy truyện ngắn, (Kiến thức ngà
y
nay 9/1991). Lương Duy Thứ với bài viết

Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn, in trong
cuốn Phê bình, bình luận văn học

dạy cả về phương pháp luận và những ứng dụng thể nghiệm. Tuy nhiên, hầu hết các
công trình, bài viết

đều đi vào tìm hiểu, phân tích một tác phẩm cụ thể mà chưa chỉ
ra một cách khái quát hướng giảng dạy tác phẩm truyện ngắn Lỗ Tấn như thế nào
cho hiệu quả và hợp lý, cũng như những kiến nghị cụ thể cho việc giảng dạy Văn
Học Trung Quốc ở trường phổ thông. Do đó trong quá trình thực hiện đề tài, chúng
tôi đã học tâp, kế thừa những t
hành quả của người đi trước với mong muốn mang lại
hiệu quả tốt nhất cho sự

nghiệp trồng người

3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CƯÚ CỦA ĐỀ TÀI

Việc giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường phổ thông có liên quan đến nhiều
cấp học. Hiện nay, trong chương trình, học sinh được tiếp xúc với tác giả này bắt
đầu từ lớp 9, trước đây trong chương trình cải cách là lớp 8. Tuy nhiên đề tài Giảng
dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường Trung học phổ thông dưới góc nhìn cuả thi
pháp học chỉ nhằm nghiên cứu và đề ra phương hướng giảng dạy trong khuôn khổ
nhà trường TH
PT, cụ thể là trong chương trình lớp 12 hiện hành (cải cách giáo dục
và phân ban) vì các truyện ngắn này được dạy ở lớp 12, đồng thời chúng tôi cũng
tham khảo thêm một số tác phẩm khác cuả Lỗ Tấn có liên quan để tiện so sánh.
Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng tiến hành dự giờ, khảo sát, phát phiếu điều tra tham
khảo tình hình giảng dạy của một số giáo vi
ên ở các trường THPT thuộc điạ bàn
tỉnh Bình Thuận (THPT Phan Bội Châu, THPT Nguyễn Văn Linh, THPT

Dân tộc

 Phương pháp nghiên cưú liên ngành : vận dụng thành tựu nghiên cưú
cuả nhiều ngành như nghiên cứu văn học, lý luận văn học, ngôn ngữ
học…..đặc biệt chú trọng những thành tựu khoa học về phương pháp
giảng dạy Văn học nói chung. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Với mục đích và ý nghĩa nâng cao hiệu quả trong việc cảm thụ và giảng dạy văn
học nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng, nhất là trong tình hình bộ môn Ngữ
Văn đang được toàn xã hội quan tâm như hiện nay, đề tài của chúng tôi mang
tính chất học tập và thử nghiệm là chủ yếu. Tuy nhiên chúng tôi cũng hi vọng
mong muốn góp một phần nhỏ trong việc giảng dạy văn học trong nhà trường
nói chung- một bộ môn rất nhạy cảm với toàn xã hội hiện na
y.
Cụ thể, đề tài cuả chúng tôi góp phần :
- Khảo sát, tìm hiểu thực tế việc giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường THPT
- Một số giải pháp và ý kiến đề xuất cho việc giảng dạy và học tập tác phẩm Lỗ
Tấn nói riêng,Văn học nước ngoài nói chung nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn Văn trong nhà trườngTHPT- một vấn đề có tính bức th
iết
6. KẾT CẤU CUẢ LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và thư mục tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương :
Chương 1 : Văn học nước ngoài trong trường phổ thông hiện nay
Chương 2 : Một số vấn đề về Lỗ Tấn và thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn
Chương 3 : Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường THPT dưới góc nhìn của
thi pháp học.

văn học đã tái tạo, phản ánh quá trình vận động không ngừng cuả đời sống một cách
đa dạng, phong phú, sinh động và hết sức sâu sắc
Ơ trường phổ thông, học sinh bắt đầu làm quen với Văn học nước ngoài từ khi
bước vào cấp II bằng những câu chuyện cổ tích
của các nước Đức, Đan Mạch…Một
thế giới lung linh đầy sắc màu huyền ảo đã được tái hiện trong những tâm hồn trẻ
thơ, kích thích và khơi dậy trí tưởng tượng, óc sáng tạo ở các em. Dần dần lên
những lớp cao hơn, học sinh sẽ được học một cách đầy đủ, khoa học hơn, những tác
phẩm văn học của các nhà văn lỗi lạc, tiêu biểu cho các trung tâm văn học rực rỡ
của loài người trong khoảng 3000 năm. Ơ phương Đông có thể kể đến các bậc thánh
thơ : Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, các tiểu thuyết gia cổ điển : La Quán Trung,
Bồ Tùng Linh, nhà văn nhà tư tưởng lớn t
hời hiện đại Lỗ Tấn , thi sĩ của những tâm
hồn An Độ R. Tago. Ơ phương Tây không thể không nhắc đến hai bộ sử thi kinh
điển của Hôme, những vở kịch nổi tiếng của Sếchxpia, Sile, tiểu thuyết lãng mạn
của V.Hugo và bậc thầy của chủ nghiã hiện thực Banzắc, văn hào vĩ đai của Nga
M.Gorky, nhà thơ lừng danh Puskin…Mỗi một nhà văn, nhà thơ đều là những đại
diện xuất sắc cho nền văn học dân tộc mình. Tên tuổi
và tác phẩm của họ đều đã
được thử thách qua thời gian và tạo được một chỗ đứng riêng trong lòng hầu hết độc
giả Việt Nam.
Văn học là lịch sử tâm hồn của mỗi dân tộc, là diễn đàn để những “thư ký trung
thành của thời đại”(Ban
zắc) nói lên tất cả những ước mơ, hoài vọng và khao khát
của mình, vì thế nó là nhịp cầu hữu nghị giúp cho giao lưu văn hoá giữa các dân tộc
diễn ra thuận lợi. Dù vô cùng đa dạng song văn học giữa các dân tộc đều có nét
chung là hướng tới những giá trị nghìn đời của chân, thiện, mỹ, giúp cho con người
sống tốt hơn, nhân ái hơn, bao dung độ lượng hơn, sống đúng nghĩa với chữ Người
viết hoa. V
à đó cũng chính là cái đích, là mục tiêu mà văn học nhà trường hướng

Cũng như vậy, mỗi một dân tộc khác nhau cũng sẽ có một lối tư duy khác nhau.
Tiếp cận với nhiều nền văn học chính là cơ sở để học sinh có điều kiện tìm hiểu
cách đánh giá, nhìn nhận và giải thích các hiện tượng, sự việc của các nhà văn thuộc
nhiều dân tộc trên thế giới. Chẳng hạn về phương thức sống,
nếu người phương
Đông trọng tĩnh, hướng nội, khép kín thì người phương Tây lại trọng động, hướng
ngoại, cởi mở. Về ứng xử, phương Đông nặng về cộng đồng, trách nhiệm, thì
phương Tây lại nghiêng về chủ nghiã cá nhân. Với thiên nhiên, phương Đông
nghiêng về hoà đồng “thiên nhân tương dữ, thiê
n nhân tương hợp” thì người
phương Tây lại thích chinh phục, khai thác, tận dụng

“Văn học là nhân học” mục đích cuối cùng của văn học vẫn là vì con người,
hướng về con người. Cho nên dù được thể hiện dưới góc độ nào chăng nữa thì con
người vẫn là vấn đề trung tâm của văn học. Là một bộ phận của văn học thế giới,
Văn học Việt Nam không thể đi khỏi quỹ đạo chung ấy, cho nên giữa những nền
văn học Á, Au, học sinh vẫn tìm ra tiếng nói chung giữa các dân tộc. Đó là những
vấn đề lớn lao của nhân loại như chiến tranh, hoà bình, quyền tự do cá nhân…Rõ
ràng đấy là những nội dung lớn mà văn học Việt Nam cũng như văn học các nước
không thể không đề cập đến. Và đó cũng chính là chất keo kết dính làm nên mối
liên hệ mật thiết giữa văn học các nước, tạo nên sự tồn tại của những mối quan hệ
sống động giữa các nền văn học của những nước khác nhau
Tất nhiên, theo tiến trình lịch sử văn học, cùng một giai đoạn, một thời kỳ có
những
vấn đề Văn học nước ngoài đã đề cập đến nhưng điều đó vẫn còn khá mới mẻ với
Văn học Việt Nam. Chẳng hạn như chủ nghiã nhân văn,
vấn đề con người cá
nhân
đã xuất hiện trong văn học phương Tây từ thời phục hưng, trong khi đó do
điều kiện kinh tế xã hội, thời kỳ này nội dung của Văn học Việt Nam vẫn bó hẹp

ợc nhân lên
1.1.3 Góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại

Mục đích cuối cùng của quá trình dạy học văn chính là quá trình học sinh
có sự chuyển biến, thay đổi về chất. Đến với tác phẩm văn chương là quá trình học
sinh đi từ tri giác đến tái hiện bằng tưởng tượng. Từ những gì thu nhận được, học
sinh sẽ khái quát, rút ra được vấn đề mà các nhà văn muốn thể hiện, cao hơn nữa là
sự định giá tác phẩm, cuối cùng là khâu tự nhận thức về bản thâ
n mình cũng như về
cuộc đời, mà có người gọi ấy là sự thăng hoa về cảm xúc, về nhận thức
Công việc của nhà văn là “ phản ánh tái hiện cuộc sống, nêu lên những hiểu
biết về thế giới, nhận thức về thế giới và bày tỏ thái độ chủ quan của mình, nói lên
ước mơ khát vọng của mình về thế giới, về cuộc sống”
[23, tr 20]. Sức mạnh của
văn học là ở chỗ khi phản ánh chân thực những mặt này hay mặt khác của cuộc
sống, những hiện tượng biến cố xã hội, nó đồng thời cũng đặt ra những vấn đề tư
tưởng, chính trị, các vấn đề của cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng, những vấn
đề về số phận con người. Cho nên,

giá trị của một tác phẩm văn học không phải chỉ
ở tính hiện thực mà còn ở tầm tư tưởng của nó. Bởi vậy, nhà văn lớn cũng thường là
những nhà tư tưởng lớn
Văn học nghệ thuật là tiếng nói tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ. Mỗi
một tác phẩm văn học đều chứa đựng những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
Cùng với văn học Việt N
am, Văn học nước ngoài trong trường phổ thông với sự đa
dạng của nhiều nền văn học từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim đã tạo nên những điển

trang vào đời của mỗi học sinh. Quả không sai khi nói rằng văn học có tác dụng
thanh lọc tâm hồn con người, nâng đỡ con người là vậy. Ngày nay, trước sự hối hả
của nhịp sống hiện đại, điều này chẳng phải càng trở nên cần thiết hay sao?
Khác với sự phát triển khoa học diễn ra theo tuyến tính, tiến bộ nghệ thuật và
quá trình văn học không dựa trên sự phủ định triệt để các thời đại văn học và trào
lưu văn học có trước. Chí
nh vì vậy, nhiều kiệt tác văn học

thế giới cho đến hôm nay
vẫn có tác động thẩm mỹ mạnh mẽ và vẫn là những chuẩn mực nghệ thuật khó vượt
qua được, nói như nhà văn Nga X. Sêđrin “ văn học nằm ngoài những định luật của
băng họai. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”
1.2. NỘI DUNG, CẤU TRÚC, THỜI LƯỢNG VĂN HỌC NƯỚC
NGOÀI TRONG SÁCH GIÁO KHOA VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG
1.2.1. Cấp trung học cơ sở

Phân phối chương trình môn Ngữ văn (phần VHNN) gồm các bài sau :
* Lớp 8
:
1. Cô bé bán diêm - cổ tích Andecxen ( 2 tiết )
2. Chiếc lá cuối cùng - Ohenri ( 2 tiết )
3. Trích đoạn : Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục- Môlie ( 2 tiết )
* Lớp 9
:
1. Cố hương – Lỗ Tấn (3 tiết)
2. Sói và cưù trong thơ ngụ ngôn của La Phông ten ( 2 tiết )
3. Rôbinxơn ngoài đảo hoang (1 tiết)
4. Bố cuả Ximông ( 2 tiết )
5. Con chó Bấc ( 1 tiết )

- AQ chính truyện ( đọc thêm )
3. Êxênin : - Thư gửi mẹ ( 2 tiết )
- Mai tóc xanh ( đọc thêm )
4. Aragông : - Enxa ngồi trước gương ( 2 tiết )
- Bài ca của người hát trong ngục tù tra tấn ( đọc thêm )
5. Hêminguê : Ông già và biển cả ( 2 tiết )
6. Sôlôkhốp : - Số phận con người ( 2 tiết )
- Trích đoạn : Sông Đông êm đềm ( đọc thêm )
7. Kaoa
bata : Thuỷ nguyệt ( đọc thêm )
8. Amađo : Terêda ( đọc thêm )1.2.3 Nhận xét chung về Văn học nước ngoài và tác phẩm Lỗ Tấn ở phổ
thông
1.2.3.1. Về Văn học nước ngoài

- Chương trình Văn học nước ngoài trong trường phổ thông đã bao quát hầu
hết văn học của các châu lục lớn trên thế giới : Châu Á (Nhật, Ấn Độ, Trung Quốc)
Châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Nga, Hylạp), Châu Mĩ (Mỹ, Braxin), với nhiều tác phẩm
của các tác giả nổi tiếng, tiêu biểu cho từng nền văn học của từng dân tộc qua các
giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Điều này tạo cho học sinh có cơ hội được mở rộng tầm
hiểu biết về văn học cũng như văn hoá của dâ
n tộc các nước
- Chương trình ở cả hai cấp đều có cấu tạo theo vòng tròn đồng tâm : từ dễ
đến khó, từ những vấn đề đơn giản đến lớn lao, đòi hỏi chiều sâu của tư duy
- Đa dạng phong phú về thể loại: sử thi, thơ, kịch
, truyện ngắn, tiểu
thuyết….Đây là cơ sở để học sinh có thể so sánh, đối chiếu với các tác phẩm trong
nước có cùng thể loại

nhiên mà những người biên sọan chương trình lại ưu ái nhiều với Lỗ Tấn như vậy.

Có thể nói, Trung Quốc không những là một quốc gia gần gũi với chúng ta về mặt
địa lý mà hơn nữa văn hóa, văn học Trung Quốc còn có nhiều điểm gần gũi với
cách nhìn, cách nghĩ của người Việt Nam mà Lỗ Tấn là một trong những nhà văn
tiêu biểu. Phải chăng vì lẽ đó mà văn chương Lỗ Tấn có một sức hấp dẫn đối với
bạn đọc Việt Nam ?
Như vậy có thể thấy so với những tác giả khác, tác phẩm cuả Lỗ Tấn đư
ợc học
khá nhiều ở phổ thông (3 tác phẩm) với thời gian là 6 tiết. Nhìn một cách tổng thể,
số lượng tác phẩm cũng như thời lượng dành cho từng bài của nhà văn này trong
chương trình như vậy có thể chấp nhận đư
ợc. Tuy nhiên nếu có thể được, cần bổ
sung thêm một truyện ngắn nữa ở phần học chính khóa (đặc biệt là ở những lớp
nâng cao), để học sinh hiểu rõ thêm phong cách nghệ thuật của nhà văn này.

1.2.3.3. Kết luận chung :

Có thể nói, cấu trúc, thời lượng, nội dung chương trình của Văn học nước ngoài
trong chương trình phổ thông đã có sự đổi mới, điều chỉnh phù hợp với tâm lý học
sinh qua từng lớp, cấp học. Học sinh phổ thông trong những giờ học Văn, thông qua
các tác phẩm nghệ thuật đã bắt đầu hiểu cuộc sống và chính bản thân mình một cách
sâu sắc hơn, đồng thời phát triển năng khiếu t
hẩm mỹ và đạo đức. Đó là kết quả của
quá trình tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc của các sọan giả để đưa ra một chương
trình học bổ ích, lý thú phù hợp với học sinh.
Lỗ Tấn là một nhà văn lớn, là “ Gorki của Trung Quốc”. Các tác phẩm của ông
không chỉ được dạy ở bậc đại học mà còn ở bậc phổ thông của nước ta. Bởi vậy
nghiên cứu văn nghiệp của nhà văn này là một công việc hết sức cần thiết cho công
tác giảng dạy của các giáo viên.

đạo. C
uộc cách mạng đã lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, xây
dựng nước Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn được bầu làm đại tổng thống lâm
thời. Tuy vậy, đấy vẫn là một cuộc cách mạng “thay thang chứ không thay thuốc”,
không giải quyết được vấn đề gì cho xã hội, nghĩa là giai cấp nông dân vẫn bị bóc
lột như thời phong kiến .
Cuối cùng, đó là cuộc vận động Ngũ Tứ 1919, một cuộc cách mạng dân c
hủ
kiểu mới đòi độc lập, chống đế quốc và phong kiến, đặt dưới sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Trung Quốc(1921) với khẩu
hiệu biểu tình của thanh niên “ngọai tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc”. Cuộc
vận động văn hóa mới của Ngũ Tứ diễn ra ở cả hai mặt : nội dung và hình thức.
Cũng từ đây đánh dấu sự chuyển mình của văn học Trung Quốc : trung đại sang
hiện đại

thể nói, tất cả những sự kiện lịch sử trên đã tác động rất lớn đến văn nghiệp
của nhà văn , nhà cách mạng Lỗ Tấn. Một nhà lý luận văn học phương Tây đã từng
viết : khi một dân tộc bị mất quyền tự do về chính trị thì văn học là diễn đàn duy
nhất mà ở đó dân tộc ấy có thể nói lên tất cả lòng căm
thù và lương tri của mình .
Và Lỗ Tấn đã thổi hồn dân tộc vào những trang viết của mình với tất cả lòng nhiệt
tình của một nhà văn chân chính.

2.1.2. Con đường cứu nước của Lỗ Tấn và sự hình thành quan niệm sáng
tác văn chương tích cực của ông
Cuộc đời của nhà văn Lỗ Tấn trải dài trên hai giai đọan lịch sử : cận đại (1840-
1911) và hiện đại (1911-1949). Đó là 80 năm lịch sử đầy biến động và đau khổ của
nhân dân Trung Hoa. Với một trí thức yêu nước như Lỗ Tấn, ấy là một nỗi nhục,
một niềm đau lớn. Thêm vào đó, cái tang ông thân sinh đã gây nên trong tâm hồn
Lỗ Tấn một mối hòai nghi đối với nghề thuốc cũ và lòng tin và

trái tim ông phải hòa cùng nhịp đập với tiếng nói của đồng bào mình. Thế mới hiểu
được vì sao nhà văn đã thao thức cả đêm ròng khi phải xa quê hương để dành trọn
cả cuộc đời mình tìm “phương thuốc” chữa bệnh cho quốc dâ
n cả về thể xác lẫn
tinh thần .
Như vậy, là kỹ sư tâm hồn của dân tộc, Lỗ Tấn đã dồn tất cả tâm huyết vào
ngọn bút sắc như lưỡi kiếm vạch mặt kẻ thù, đưa chúng ra trước vành móng ngựa,
đồng thời phanh phui, mổ xẻ mọi thói hư tật xấu của quảng đại quần chúng nhân
dân đang
mê muội và bị lợi dụng. Với một tư tưởng sáng tác như thế, chủ đề nổi bật
trong tác phẩm của ông là các căn bệnh tinh thần cản trở con đường giải phóng dân
tộc (ông gọi là liệt căn tính quốc dân , nghĩa là bệnh tật căn bản của quốc dân). Ở
Lỗ Tấn, sức mạnh tinh thần đã được nhân lên gấp bội, vì ông vốn là nhà tư tưởng,
nhà
văn hóa của nước Trung Hoa thời cận đại. Ông đã hát cho đồng bào mình
nghe bài hát lạc điệu của bản thân họ, chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên
con đường hành quân tiến về tương lai. Thái độ của Lỗ Tấn làm chúng ta nhớ đến
Các Mác khi người chỉ trích sự lạc hậu của dân tộc Đức so với các dân tộc Châu Au
vào giữa thế kỷ XIX : “ vấn đề là không được để ch
o người Đức có lấy một chút ảo
tưởng và nhẫn nhục nào cả. Phải làm cho sự áp bức hiện thực trở nên nặng nề hơn
bằng cách thêm vào đó ý thức về sự áp bức. Phải làm cho sự nhục nhã trở thành
nhục nhã hơn bằng cách công bố nó. Phải làm cho nhân dân biết sợ bản thân mình
để họ mạnh dạn lên” [Dẫn theo 8,tr 22]. Ý nghĩa lịch sử của chủ đề “ phê phán liệt
căn tính quốc dân” trong sáng tác Lỗ Tấn càng trở nê
n sâu sắc, thấm thía vì nhà văn
đã viết ra với thái độ tự phê bình. Ông nói : tôi mổ xẻ người khác nhưng phần nhiều
là mổ xẻ chính mình, có lẽ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất về sứ mệnh cao cả của nhà
văn.
Quan niệm sáng tác : văn chương cải tạo tinh thần quốc dân là kim chỉ nam chi

của tư tưởng nhà văn
không dễ gì nắm được đầy đủ. Do vậy, để giảng dạy tốt các truyện ngắn của Lỗ Tấn
ở phổ thông, thiết nghĩ ngòai việc nắm được quan niệm sáng tác, chúng ta cũng cần
phải tìm hiểu thi pháp truyện ngắn của nhà văn. Có thể đó sẽ là chiếc chìa khóa
vàng để mở cánh cửa khám phá lâu đài văn chương Lỗ Tấn .

2.2. THI PHÁP TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN
2.2.1. Về thuật ngữ thi pháp và thi pháp học

2.2.1.1. Thi pháp
Thật khó có một định nghĩa hoàn chỉnh cho một hiện tượng luôn biến động.
Hiện nay, thuật ngữ thi pháp và thi pháp học đã không còn xa lạ với những người
làm công tác nghiên cứu khoa học nữa. Đã có rất nhiều quan niệm và cách trình bày
khác nhau của nhiều tác giả về nội dung khoa học của các khái niệm này. Do vậy
trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi cũng chỉ mạn phép trình bày một cách ngắn
gọn những cách hiểu , lý giải của những người đi trứơc về vấn đề này.

Trong công trình Lý luận và văn học, GS Lê Ngọc Trà đã nêu lên nội hàm của
khái niệm thi pháp là :
hệ thống các phương tiện, cách thức thể hiện và tổ chức ý thức nghệ thuật
trong sáng tạo văn chương [10,tr139]. Đặc điểm thi pháp như là hình thức bên
trong của tác phẩm văn học thường gắn liền với những đăc điểm của bản thân ý

thức nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy muốn nghiên cứu thi pháp của một tác phẩm
hoặc sáng tác của nhà văn phải xác định cho được quan niệm về thế giới và tư
tưởng xã hội của tác giả [10,tr143]
Năm 1998, trong công trình Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, GS Nguyễn
Văn Hạnh đã đưa ra một định nghĩa về thi pháp hết sức bao quát:
thi pháp là nghệ thuật thi ca, nói một cách chặt chẽ và khái quát hơn là hệ
thống những nguyên tắc chỉ đạo quá trình sáng tác và xây dựng tác phẩm văn học

thuật ngôn từ và các cấu trúc, các loại thể tác phẩm văn học. Còn Khravchenko thì
quan niệm : thi pháp học như một môn khoa học nghiên cứu các phương thức và
phương tiện thể hiện cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, khám phá cuộc sống
một cách hình tượng [dẫn theo1,tr10]

Trích đoạn Thi pháp học Những phương diện trong thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn Người kể chuyện Khơng gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật Về phía người dạy
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status