NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA CHIỀU SÂU TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á - Pdf 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
 ĐẶNG THỊ THU THẢO

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA
CHIỀU SÂU TÀI CHÍNH VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA CÁC
QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QLĐT SAU ĐẠI HỌC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TPHCM, ngày 30 tháng 09 năm 2013

Nhận xét của Người hướng dẫn khoa học

1. Họ và tên học viên: ĐẶNG THỊ THU THẢO - Khóa: 19
2. Mã ngành: 60340201
3. Đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa chiều sâu tài chính và
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á”.
4. Họ tên Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
5. Nhận xét: (Kết cấu luận văn, phương pháp nghiên cứu, những nội dung
(đóng góp) của đề tài nghiên cứu, thái độ làm việc của học viên)
6. Kết luận: ……………………………………………………………
7. Đánh giá: ( điểm /10).
Đặng Thị Thu Thảo
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT
1. GIỚI THIỆU 2
2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 4
2.1 Các nghiên cứu tìm thấy ảnh hưởng tích cực của chiều sâu tài chính
đối với tăng trưởng kinh tế. 4
2.2 Các nghiên cứu nghi ngờ ảnh hưởng của chiều sâu tài chính đối với
tăng trưởng kinh tế. 10
2.3 Nhận xét 15
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
3.1 Phương pháp nghiên cứu 15
3.2 Mẫu nghiên cứu 18
3.3 Mô hình nghiên cứu 19
3.4 Mô tả các biến 19
3.4.1 Biến phụ thuộc Y
it
19
3.4.2 Biến độc lập 20
3.4.3 Mô hình cụ thể 24
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Mô tả kỳ vọng dự kiến của mô hình 25
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến 26
Bảng 4.2: Kiểm định tương quan của giả thuyết 1 27
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy giả thuyết 1 28
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy giả thiết 1 bằng mô hình FEM (tác động quốc gia) 30
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy giả thuyết 2 32
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy giả thiết 2 bằng mô hình FEM (tác động quốc gia) 33
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy giả thuyết 3 34
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy giả thiết 3 bằng mô hình FEM (tác động quốc gia) 35
Bảng 4.9: Kết quả hiệu chỉnh phương sai thay đổi 37
1 TÓM TẮT

Mục tiêu chính của nghiên cứu nhằm tìm hiểu chiều sâu tài chính tại các quốc
gia đang phát triển Châu Á thực sự có ảnh hưởng hay tác động như thế nào đến tăng
trưởng kinh tế. Để kiểm định các giả thiết liên quan đến mục tiêu nghiên cứu, tác
giả sử dụng biến tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người trong mối quan hệ lần
lượt với các biến tỷ lệ tiền mở rộng M2 trên GDP, tỷ lệ tiền M2 trừ tiền M1 trên
GDP, tỷ lệ tín dụng nội địa phân bổ tới khu vực tư nhân. Mẫu nghiên cứu gồm 30
quốc gia trong giai đoạn từ năm 1994 đến 2011 với phương pháp phân tích hồi quy
Pooled OLS, hồi quy hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên thường được sử
dụng trong các dữ liệu bảng.

mức độ phát triển tài chính của một quốc gia, được đo lường bằng nhiều chỉ số như
cung tiền mở rộng M3/GDP, tỷ lệ tài sản ngân hàng tư nhân so với tổng tài sản hệ
thống ngân hàng, tỷ lệ tín dụng tư nhân/GDP, giá trị các loại tiền trong hệ thống
ngân hàng (M3-M1)…
Tuy nhiên, bên cạnh khía cạnh ảnh hưởng tích cực được nêu trong lý thuyết
kinh tế và các kiểm định thực nghiệm truyền thống, cũng có nhiều ý kiến nghi ngờ
về độ tin cậy và sự chắc chắn của mối quan hệ này. Sự phát triển quá nhanh hoặc
không ổn định của hệ thống tài chính có thể đem lại các rủi ro, nguy hiểm cho quá
trình tăng trưởng. Một quốc gia có chiều sâu tài chính lớn không phải luôn luôn là
một quốc gia có hệ thống tài chính tốt. Đặc biệt trong những năm gần đây, có nhiều
3 nghiên cứu đã chứng minh việc không tồn tại, hoặc thậm chí tìm thấy quan hệ
nghịch biến giữa chiều sâu tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Liên hệ đến khu vực Châu Á là châu lục lớn nhất và đông dân nhất thế giới
trong những năm gần đây chứng kiến sự lớn mạnh nổi bật của nền kinh tế đang phát
triển. Sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này tăng lên
nhanh chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Theo quá trình mở cửa thị
trường, tự do hóa tài chính hội nhập với nền tài chính thế giới, việc hình thành các
thể chế, thị trường và nhu cầu giao dịch diễn ra hết sức sôi động đã góp phần đem
lại hiệu quả đổi mới cũng như tăng trưởng kinh tế vượt bậc cho Châu Á. Bên cạnh
đó, mặt trái của quá trình tăng trưởng nhanh, thậm chí là tăng trưởng nóng cũng
đem lại những hậu quả rủi ro, điển hình là các cuộc khủng hoảng tài chính năm
1997 bắt nguồn từ Thái Lan, chịu ảnh hưởng nối tiếp của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu từ năm 2008 với diễn biến và hậu quả còn kéo dài cho đến thời điểm này. Như
vậy cần phải xem lại thực lực và sức chịu đựng của hệ thống tài chính có thể đem
lại sự tăng trưởng kinh tế ổn định và kéo dài. Đồng thời từ đó cũng đặt ra sự hoài
nghi về mối quan hệ giữa phát triển tài chính – được thể hiện qua các chỉ số chiều
sâu tài chính – với tăng trưởng kinh tế? Đó là lý do tác giả đã chọn vấn đề chiều sâu

là tỷ lệ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người, và một loạt biến giải thích đại
diện cho nguồn vốn nhân lực, tỷ lệ sinh sản (tỷ lệ số trẻ em trên số phụ nữ), đầu tư,
chi tiêu chính phủ, ổn định chính trị, thể chế nền kinh tế, sự bóp méo thị trường…
Đây có thể được xem là khung phương pháp chuẩn, làm nền tảng cho rất nhiều
nghiên cứu sau này về mối quan hệ giữa tăng trưởng và các yếu tố khác của nền
kinh tế, trong đó có yếu tố phát triển tài chính.
Tiếp theo, Levine và Renelt (1992) đã kế thừa và mở rộng mô hình của Barro
(1991) bằng cách đưa vào tập các biến giải thích đại diện cho sự phát triển của tài
chính.
Tập các biến cơ bản bao gồm: tỷ lệ đầu tư trên GDP, mức GDP thực bình quân
đầu người ở thời điểm đầu tiên, tỷ lệ đến trường cấp 2 ở thời điểm đầu tiên, và mức
độ tăng trưởng dân số bình quân hàng năm. Tập các biến bổ sung: Tỷ lệ bình quân
của chi tiêu chính phủ trên GDP, tỷ lệ lạm phát bình quân, tỷ lệ tăng trưởng bình
quân của tín dụng nội địa, độ lệch chuẩn của lạm phát, tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu
5 trên GDP, độ lệch chuẩn của tăng trưởng tín dụng nội địa, chỉ số đại diện cho các
cuộc cách mạng và bạo loạn.
Bằng cách nghiên cứu dữ liệu của 119 quốc gia từ năm 1960 đến năm 1989,
kết luận của tác giả cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đó về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và các biến phụ thuộc. Ví dụ tăng trưởng kinh tế tương quan âm
với mức GDP thực bình quân đầu người ở thời điểm đầu tiên, phù hợp với giả
thuyết hội tụ cho rằng một quốc gia nghèo có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn các
nước giàu. Đó là mối tương quan dương với hàng loạt biến tỷ lệ đến trường cấp 2 ở
thời điểm đầu tiên, tỷ lệ bình quân của chi tiêu chính phủ trên GDP, tỷ lệ tăng
trưởng bình quân của tín dụng nội địa, tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu trên GDP …
Ngay sau đó, King và Levine (1993) cũng mở rộng mô hình dữ liệu chéo đã
được Barro (1991) xây dựng và sử dụng dữ liệu của 80 quốc gia đã và đang phát
triển từng được Levine và Renelt (1992) nghiên cứu để xem xét sự phát triển của

triển kinh tế do đó các chính sách thay đổi hiệu quả của trung gian tài chính sẽ giúp
thúc đẩy và tạo ảnh hưởng đầu tiên lên tăng trưởng kinh tế
Bài nghiên cứu của Klein và Olivei (1999) cho kết quả nghiên cứu về tác
động rõ ràng của việc mở rộng tài khoản vốn lên chiều sâu tài chính, từ đó chiều sâu
tài chính tiếp tục ảnh hưởng tích cực lên tăng trưởng kinh tế thông qua dữ liệu chéo
của gần 100 nước (gồm 21 nước công nghiệp và hơn 70 nước đang phát triển) thời
kỳ 1986-1995.
Tác giả cũng sử dụng 3 trong số 4 biến chỉ số tài chính mà King và Levine
(1993) đã sử dụng đó là LLY, PRIVY và BANK; biến đại diện cho tự do hóa tài
khoản vốn là SHARE (tỷ lệ số năm thực hiện tự hóa tài khoản vốn trong giai đoạn
1986-1995 của mỗi quốc gia), biến đại diện cho tăng trưởng là GDP.
Kết luận đầu tiên là những nước có mở cửa tài khoản vốn trong thời kỳ này
đều có chiều sâu tài chính tăng trưởng lớn hơn những nước còn tiếp tục giới hạn tài
khoản vốn và vì thế họ tăng tưởng tốt hơn. Ngoài ra, chiều sâu của những thị trường
tài chính này còn cho kết quả vượt ngoài dự kiến của tác giả về sự hội tụ tài chính,
đó là các nước ban đầu có chiều sâu tài chính thấp hơn trong một số trường hợp sau
đó đã tăng trưởng và bắt kịp với các nước có chiều sâu tài chính ban đầu cao hơn.
7 Tuy nhiên tự do hóa tài chính không mang lại lợi ích như nhau cho tất cả các
quốc gia. Cụ thể những kết quả tương quan ở trên chỉ thể hiện rõ ở những nước đã
phát triển trong mẫu kiểm định. Tại những nước đang phát triển không hoặc rất
hiếm quan sát được kết quả này. Điều đó cho thấy ở những nước đang phát triển,
các chính sách ban hành chỉ cho phép tự do tài khoản vốn khi các đã có đầy đủ các
định chế cần thiết và những chính sách vi mô hiệu quả.
Levine, Loayza, Beck (2000) tập trung để trả lời 2 câu hỏi (1) liệu các yếu tố
ngoại sinh của phát triển trung gian tài chính có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
hay không và (2) liệu sự khác nhau giữa các quốc gia về hệ thống kế toán và luật
pháp có giải thích được sự khác nhau trong mức độ phát triển tài chính hay không?

nhà nước hoạt động không hiệu quả hơn là được cung cấp cho khu vực kinh tế tư
nhân hiệu quả. Mặt khác, chiều sâu thị trường tài chính vốn phản ánh hoạt động
khu vực kinh tế tư nhân và vì vậy có thể phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng thực của
Trung Quốc, và ảnh hưởng của nó lên tăng trưởng đã thể hiện rõ ràng trong kết quả
nghiên cứu của tác giả.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu về các nền kinh tế mới nổi cũng cho thấy tài
chính được xem như là yếu tố mang lại sự thành công cho phát triển kinh tế như ở
Singapore (Murinde và Eng, 1995), Hàn Quốc (Choe và Moosa, 1999) hoặc Đài
Loan (Chang và Caudill, 2005).
Về nghiên cứu cho một nhóm các quốc gia có đặc tính chung, có thể kể đến
như tác giả Gries, Kraft và Meierrieks (2009) nghiên cứu mối quan hệ giữa chiều
sâu tài chính, độ mở cửa thương mại và phát triển kinh tế trên 16 nước Châu phi
phía nam hạ Sahara (các nước SSA).
Các tác giả xây dựng một chỉ số DEPTH để đo lường chiều sâu tài chính được
tổng hợp từ 3 chỉ số rời rạc là tỷ lệ tài sản ngân hàng thương mại so với tổng tài sản
của hệ thống ngân hàng, nợ thanh khoản trên GDP, và tỷ lệ tín dụng cá nhân tại các
ngân hàng tiền gửi trên GDP. Kết quả cho thấy chỉ có mối quan hệ yếu giữa chiều
sâu tài chính và tăng trưởng kinh tế. Có rất ít bằng chứng cho thấy tài chính thúc
đẩy tăng trưởng. Cụ thể, bằng chứng chỉ tìm thấy ở 3 nước Rwanda, Sierra Leone
và Nam Phi trong tổng số 16 nước nghiên cứu. Đặc biệt, bằng chứng của giả thuyết
tài chính dẫn đến tăng trưởng không mang tính chắc chắn. Nghĩa là chiều sâu tài
9 chính và độ mở cửa thương mại chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng ở mức độ nhỏ. Các
tác giả cho rằng kết quả như vậy là phù hợp với thực trạng hệ thống tài chính yếu
kém phát triển của khu vực này khi mà chỉ số chiều sâu tài chính rất thấp và thiếu
vắng các thể chế quan trọng.
Hơn nữa, nghiên cứu cũng đề cập đến vấn đề tự do hóa tài chính cần phải
được xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt khi mà các nỗ lực tự do hóa trong quá khứ nhìn

giải thích cho kết quả tăng trưởng kinh tế không thể thiếu yếu tố đóng góp của phát
triển tài chính. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ảnh hưởng tích cực
của tài chính đối với tăng trưởng chỉ có thể đạt được khi cơ chế quản lý và chất
lượng hệ thống tài chính đạt được một số điều kiện nhất định.
2.2 Các nghiên cứu nghi ngờ ảnh hưởng của chiều sâu tài chính đối với tăng
trưởng kinh tế.
Mặc dù mối quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng – tài chính đã được khẳng
định, nhưng mức độ chính xác hay mối hoài nghi về kết quả của các nghiên cứu
thực nghiệm vẫn là một câu hỏi. Các nhà kinh tế độc lập như Joan Robinson hay
Friedman và Schwartz đã nhấn mạnh sự nghi ngờ về mối quan hệ này. Joan
Robinson cho rằng ở đâu có kinh doanh phát triển ở đó mới có tài chính (Robison,
1952), còn đối với Friedman và Schwartz (1963) thì tỷ lệ tiền mở rộng trên GDP
danh nghĩa (đại diện cho chiều sâu tài chính) cũng là nghịch đảo của tốc độ lưu
thông tiền mở rộng do đó một mối quan hệ thuận chiều giữa phát triển tài chính và
GDP thực sẽ tương đương với xu hướng suy giảm tốc độ lưu thông tiền. Lý thuyết
khủng hoảng tài chính lại chỉ ra rằng ảnh hưởng không ổn định của tự do hóa tài
chính khi nó có thể dẫn đến sự bùng nổ quá mức của tín dụng. Cho vay quá nhiều
có thể xảy ra tình trạng nợ đọng của các nhà máy, trong đó bao gồm cả khả năng
kiểm soát bị giới hạn của cơ quan quản lý, khả năng không thể phân biệt được các
dự án tốt trong thời kỳ đầu tư bùng nổ, và tồn tại cơ chế bảo vệ rõ ràng hoặc ngấm
ngầm nhằm chống đỡ cho các sai sót của hệ thống ngân hàng.
Tác giả Lucas (1988) xem xét hai quan điểm đối lập nhau về ảnh hưởng của
tài chính lên hoạt động kinh tế. Một bên lý luận tăng trưởng thực nghiệm cho rằng
tín dụng tư nhân trong nước và tiền gửi ngân hàng ảnh hưởng tích cực lên tăng
trưởng. Còn một bên lý thuyết khủng hoảng tiền tệ và ngân hàng thì cho rằng các
11 vấn đề về tiền tệ, ví dụ như tín dụng nội địa là chỉ số dự đoán cho khủng hoảng. Bởi
vì khủng hoảng ngân hàng thường dẫn đến tình trạng suy thoái, một sự bùng nổ của

2003. Để phù hợp với nghiên cứu ban đầu của King và Levine (1993), các tác giả
cũng sử dụng 3 chỉ số phát triển tài chính quen thuộc là: tỷ lệ tiền thanh khoản
M3/GDP, (M3-M1)/GDP và tỷ lệ phân bổ tín dụng đến khu vực tư nhân. Một mặt,
bài nghiên cứu nhằm kiểm chứng lại lần nữa bằng dữ liệu bảng giữa các nước về
mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng và chiều sâu tài chính. Đồng thời tác giả cũng
kiểm tra độ nhạy cảm của kết quả thay đổi theo thời gian và thay đổi giữa các quốc
gia được chọn làm mẫu.
Kết quả cho thấy, trong khoảng thời gian 1960-1989 đã tìm thấy mối quan hệ
giữa tăng trưởng GDP và các chỉ số chiều sâu tài chính (mặc dù không có mạnh như
các nghiên cứu trước đây), ngược lại ở giai đoạn 15 năm tiếp theo, nghiên cứu
không quan sát thấy được mối quan hệ này. Tác giả giải thích bằng 2 lý do. Đầu
tiên, chiều sâu tài chính có vẻ gia tăng khi hấp thụ các cú sốc toàn cầu trong các
thập kỷ 70 và 80. Vào các giai đoạn này, khủng hoảng dầu mỏ và lạm phát cao kéo
dài đã thống trị ở nhiều quốc gia. Chiều sâu tài chính lớn đi cùng với sự tăng trưởng
là do bởi những quốc gia này được hưởng lợi ích từ hệ thống, định chế tài chính
vững vàng có khả năng chịu đựng tốt hơn đối với những cú sốc danh nghĩa quen
thuộc. Thứ hai, xu hướng mở rộng tự do hóa tài chính ở nhiều quốc gia trong thập
kỷ 80 có thể dẫn tới sự tăng trưởng nhanh chóng trên mức trung bình của chiều sâu
tài chính. Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia tăng trưởng tiền gửi và tín dụng diễn ra lại
không đi cùng với sự phát triển cần thiết của thẩm định cho vay, kỹ thuật giám sát,
các kỹ năng quy định và quản lý. Vì thế, mối quan hệ quan sát được ở dữ liệu trong
giai đoạn trước đó đã có xu hướng biến mất khi mà nỗ lực tự do hóa thị trường tài
chính diễn ra tại những đất nước vốn không đủ năng lực về cơ sở hạ tầng luật pháp
và quy định để có thể khai thác thành công sự phát triển về tài chính.
Ngoài ra, kỹ thuật hồi quy cuốn (rolling regression) đã được sử dụng để xem
xét những quốc gia nào có mối quan hệ giữa tăng trưởng và tài chính mạnh hơn.
Đối với các nước nghèo hơn, mối quan hệ là dương nhưng không có ý nghĩa thống
kê, còn đối với các nước giàu hơn thì không thấy có quan hệ này. Tuy nhiên, có một
kết quả rõ ràng rằng chiều sâu tài chính giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại các
13

chứng cho thấy sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm gần đây
14 đã thay thế cho tài chính nợ và dẫn tới hạn chế vai trò của chiều sâu tài chính đối
với tăng trưởng kinh tế.
Khi xem xét dữ liệu của 152 quốc gia giai đoạn 1996-2005, các tác giả Hasan,
Koetter, Lensink và Meesters (2009) cũng không tìm thấy mối quan hệ ý nghĩa
giữa tăng trưởng kinh tế và các chỉ tiêu đo lường chiều sâu tài chính cơ bản (tổng
giá trị thị trường chứng khoán trên GDP hay tín dụng tư nhân trên GDP). Các tác
giả cũng đề xuất một chỉ tiêu đo lường hiệu quả chi phí của các ngân hàng (được
tính toán từ tập các chỉ số hoạt động của ngân hàng) để thay thế biến đại diện cho
phát triển tài chính. Mặc dù tác giả tìm thấy mối tương quan ý nghĩa giữa một hệ
thống ngân hàng hiệu quả và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên tác giả cũng nhấn mạnh
chiều sâu thị trường tài chính chỉ thực sự có tác động đến tăng trưởng kinh tế khi
chỉ số hiệu quả chi phí ngân hàng lớn hơn 70%, bởi vì chỉ khi đó phát triển tài chính
mới thực sự là bền vững.
Dabos và Gantman (2010) tập hợp dữ liệu bảng của 98 quốc gia giai đoạn từ
1961-2007 để đánh giá mối quan hệ giữa biến tỷ lệ tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ
tín dụng cho khu vực tư nhân. Khi sử dụng phương pháp hồi quy mô men tổng quát
GMM và các biến công cụ, hệ số của biến tỷ lệ tín dụng khu vực tư nhân mang dấu
âm hoặc dương nhưng đều không có ý nghĩa thống kê. Nhằm xem xét ảnh hưởng
của yếu tố thu nhập, tác giả tiếp tục tách riêng để nghiên cứu nhóm các quốc gia với
mức thu nhập cao (quốc gia đã phát triển) và nhóm các quốc gia với mức thu nhập
thấp (quốc gia đang phát triển). Tuy nhiên, kết quả ở 2 nhóm đối tượng này cũng
xảy ra tương tự. Như vậy mối liên kết tài chính – tăng trưởng không thể hiện rõ ràng
như trong các cơ sở lý luận và kết luận của bài nghiên cứu cũng phù hợp với
Rousseau và Wachtel (2007). Theo tác giả, mối quan hệ này có thể đã tồn tại đúng
trong thời kỳ hậu chiến tranh, nhưng nó xuất hiện không còn lâu dài trong thế giới
tài chính toàn cầu hiện nay. Việc mở rộng các hoạt động tài chính ở cấp độ tài chính

chứng cũng như đánh giá lựa chọn mô hình đạt kết quả tốt nhất, tác giả bổ sung
phân tích theo mô hình hiệu ứng cố định và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên.
16 Mô hình hiệu ứng cố định (fixed effects model- FEM): dựa trên quan điểm
mỗi đối tượng được quan sát hoặc mỗi thời điểm quan sát đều có những đặc điểm
riêng biệt, có thể ảnh hưởng đến các biến giải thích vì thế mô hình này nhằm xem
xét “đặc điểm cá nhân” của từng đối tượng theo không gian hoặc thời gian, bằng
cách:
 Giả định rằng các hệ số độ dốc là hằng số đối với các đối tượng quan sát
hoặc thời điểm quan sát.
 Giả thiết rằng có sự tương quan giữa phần dư của mỗi đối tượng (có chứa
các đặc điểm riêng) với các biến giải thích
 Để cho tung độ gốc β1i thay đổi theo từng đối tượng hoặc theo thời gian.
Mô hình FEM: Y
it
= β
1it
+ β
2
X
2it
+ β
3
X
3it
+ … + u
it


2
X
2it
+ β
3
X
3it
+ … + u
it

Để chọn lựa mô hình phù hợp, tác giả sử dụng các phương pháp:
 Hệ số R
2
càng cao càng thể hiện mức độ phù hợp tốt hơn của mô hình.
17  Kiểm định Durbin-Watson (DW) nhằm xác định có hay không hiện tượng
tự tương quan trong mô hình. Xem xét giá trị d trong kiểm định DW:
 0<d<1: mô hình có hiện tượng tự tương quan dương
 1<d<3: không có hiện tượng tự tương quan
 3<d<4: mô hình có hiện tượng tự tương quan âm
 Kiểm định Hausman nhằm lựa chọn mô hình FEM hay REM phù hợp cho
hồi quy dữ liệu mẫu. Thực chất kiểm định Hausman xem xét có tồn tại mối
tương quan giữa đặc điểm riêng (sai số ε) của các đối tượng quan sát với
biến giải thích. Giả thiết H
0
của kiểm định là không có sự tương quan giữa
thành phần sai số riêng biệt và biến giải thích, tương đương với việc sử
dụng mô hình REM. Trị thống kê kiểm định do Hausman xây dựng có một


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status