Tìm hiểu, phân tích và đánh giá tình hình phát triển của làng nghề thêu ren của THANH HÀ (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) - Pdf 30

MỞ ĐẦU
Nghiên cứu: Tìm hiểu, phân tích và đánh giá tình hình phát triển của
làng nghề thêu ren của THANH HÀ (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam)
1.1. Sự cần thiết của đề tài
Từ xa xưa, hệ thống các làng nghề tiểu thủ công nghiệp luôn chiếm vị
trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa tinh thần ở các vùng
quê Việt Nam. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp rất có ý
nghĩa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trước đây kinh tế của người Việt chủ yếu sống dựa vào nghề trồng lúa
nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Chỉ những ngày đầu
vụ và cuối vụ người dân mới có việc làm còn những ngày còn lại thì rất nông
nhàn. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm
nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng
ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương hỗ trợ và phát triển nông
nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước, các ngành nghề, làng nghề tiểu thủ
công nghiệp ở nước ta đã và đang được khôi phục và phát triển. Nhiều làng
nghề tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra việc làm thường xuyên cho trên 50% lao
động và sử dụng được phần lớn lao động nông nhàn
Thanh Hà (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) là xã có nghề thêu ren
truyền thống từ lâu đời. Những năm gần đây, các làng nghề thêu ren ở xã
được khôi phục và phát triển ở tất cả các thôn, xóm. Có thể nói, phát triển các
làng nghề thêu ren là một thế mạnh thực sự để xã tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn địa phương. Các làng nghề đã từng bước làm thay đổi
bộ mặt nông thôn của xã, góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm,
tăng thu nhập và nâng cao mức sống người dân địa phương. Một số làng nghề
thêu ren từ lâu đã trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài tỉnh như làng nghề thêu
ren An Hoà, Hoà Ngãi,... sản phẩm thêu ren của những làng nghề này đã có
mặt ở nhiều nước trên thế giới.

Làng nghề tiểu thủ công nghiệp (làng nghề): là làng có nghề tiểu thủ
công nghiệp phát triển với một tỷ lệ số hộ và tỷ lệ thu nhập từ nghề TTCN
nhất định, trở thành nguồn thu nhập quan trọng không thể thiếu được của
người dân trong làng. Nhiều nước trên thế giới lấy tỷ lệ 20% hay 30%, ở Việt
Nam đang có xu hướng lấy tỷ lệ 30% hay 50% số hộ dân làm nghề và thu nhập
của làng từ nghề thủ công. Tỷ lệ đó được duy trì và ổn định trong nhiều năm.
2.2. Phân loại làng nghể tiểu thủ công nghiệp (TTCN)
- Theo thời gian (sự hình thành của làng nghề):
+ Làng nghề truyền thống: là làng nghề có lịch sử hình thành và phát
triển lâu đời. Sản phẩm của làng nghề có nét độc đáo, có tính riêng biệt mang
đặc thù của địa phương, chứa đựng cả yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, được
nhiều người biết đến và được tiêu thụ ở nhiều nơi. Làng nghề truyền thống có thể
đang phát triển, có thể đang bị mai một hoặc không còn làm nghề nữa.
+ Làng nghề mới: là làng nghề mới được hình thành do yêu cầu phát triển
sản xuất và đời sống trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế của địa phương.
- Theo nghề TTCN:
+ Làng nghề thủ công mỹ nghệ (sản xuất ra các sản phẩm như: thêu
ren, thảm, khảm, sơn mài, gốm sứ mỹ nghệ, chạm khắc gỗ, kim hoàn,...).
+ Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm.
+ Làng nghề vật liệu xây dựng.
+ Làng nghề dệt nhuộm.
+ Làng nghề tái chế chất thải (giấy, nhựa, kim loại,...).v.v...
- Theo tính chất của sản xuất: làng nông nghiệp kiêm nghề thủ công,
làng nghề thủ công chuyên nghiệp, làng nghề thủ công xuất khẩu.v.v...
2.3. Đặc điểm chung nhất của làng nghề
A, Đặc điểm của làng nghề TTCN
Nhìn chung, các làng nghề TTCN ở nước ta đều có những đặc điểm
chung nổi bật sau đây:
Một là, tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề TTCN theo hộ
gia đình là chủ yếu.

khẩu, góp phần tăng thu nhập trong từng hộ gia đình, chiếm vị trí quan trọng
trong sản xuất, đời sống và trong nền kinh tế quốc dân.
Nghề thêu ren không quá phức tạp, đòi hỏi lớn nhất với những người
làm nghề là sự kiên trì, cẩn thận và ý thức làm việc tập thể. Công cụ dùng
trong nghề thêu ren khá đơn giản. Các thợ thêu chỉ sử dụng một số thứ vật liệu
ở mức tối thiểu như khung thêu, kim thêu các cỡ (kiểu tròn và kiểu chữ nhật),
kéo, thước, bút lông, phấn mỡ, vải thêu (vải trắng, sa tanh, lụa...), chỉ thêu các
màu. Chính vì thế, nghề thêu ren rất phù hợp với khả năng nguồn lao động
của nước ta, nhất là ở khu vực nông thôn. Mũi kim thoăn thoắt đưa đi đưa lại
những đường chỉ cùng đó là những hình thù với màu sắc sống động dần hiện
ra. Các sản phẩm thêu ren trước hết là những vật phẩm có giá trị nghệ thuật
cao, không bao giờ lỗi mốt, chúng rất gần gũi với cuộc sống con người và tô
điểm cho cuộc sống của con người kể từ lúc chào đời cho đến khi giã từ cuộc
sống, từ những tấm khăn tay đến các loại khăn trải bàn, ga gối, rèm cửa, quần
áo,... đến tranh thêu.
Ngoài giá trị sử dụng phục vụ nhu cầu của con người, hàng thêu ren còn
có giá trị văn hoá lịch sử thể hiện nét văn hoá dân tộc độc đáo.
Vì vậy , nghề thêu ren cần phát triển cho tương xứng với tiềm năng của nó.
B, Đặc điểm của làng nghề thủ công xã Thanh Hà
Xã Thanh Hà (Thanh Liêm) nằm cạnh quốc lộ 1A, có 2.626 hộ với 9.699
người ở 7 thôn. Trong số 2.626 hộ thì có 2.002 hộ làm nghề thêu ren chiếm
76,2%, với 5.740 lao động tham gia, trong số này lao động chính có 2.684
người, lao động phụ là 2.896 người và lao động thuê là 160 người. Những con
số trên chứng tỏ Thanh Hà là xã mà số hộ và số lao động làm nghề thêu ren
nhiều nhất tỉnh.
Nghề thêu ren ở xã thanh Hà phát triển rộng rãi không ngừng, phục vụ
nhu cầu trong nước và xuất khẩu, với các mặt hàng ngày càng đa dạng và
phong phú đáp ứng nhu cầu khó tính của khách hàng.
Toàn bộ làng nghề hiện có hơn 5.000 khung thêu, 30 hộ có thiết bị giặt
là và in, ngoài ra còn có các dụng cụ khác như: kim, kim móc, dao, kéo…

Tổng giá trị sản xuất của xã tăng từ 71,4 tỷ đồng năm 2003 lên 107,8 tỷ
đồng năm 2007 (theo giá hiện hành), tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân
giai đoạn 2003 - 2007 đạt 10,8%, trong đó ngành công nghiệp - xây dựng tăng
13,4%, ngành thương mại - dịch vụ tăng 8,2% và ngành nông nghiệp tăng 3,8%.
Bảng 2.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã Thanh Hà 2003 - 2007
(theo giá hiện hành)
Đơn vị: tỷ đồng,%
Chỉ tiêu
Năm 2003 Năm 2007
GTSX Cơ cấu GTSX Cơ cấu
GTSX 71,4 100 107,8 100
1. Nông nghiệp - thuỷ sản 20,2 28,3 27,2 25,2
2. Công nghiệp, TTCN - xây
dựng
30,2 42,3 48,1 44,7
3. Dịch vụ - thương mại 21,0 29,4 32,5 30,1
Nguồn: Tổng hợp Báo cáo của UBND xã Thanh Hà, giai đoạn 2003 - 2007
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế của xã thời gian qua có
sự chuyển dịch tích cực phù hợp với xu thế chung của huyện và tỉnh, giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp, thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất (về giá trị vẫn
tăng), tăng dần tỷ trọng công nghiệp, TTCN, xây dựng và thương mại, dịch
vụ. Năm 2003, tỷ trọng nông nghiệp trong tổng giá trị sản xuất là 28,3%, công
nghiệp - TTCN - xây dựng 42,3% và thương mại, dịch vụ 29,4% (xem bảng
2.2). Năm 2007, tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 25,2%, công nghiệp -
TTCN - xây dựng tăng lên là 44,7% và thương mại, dịch vụ tăng là 30,1%.
b, Thực trạng của nghề thêu ren xã thanh hà
Quy mô sản lượng sản phẩm thêu ren ở các làng nghề một số năm qua
có sự tăng trưởng khá nhanh và ổn định, tốc độ tăng sản lượng bình quân hàng
năm đạt 19,4%. Năm 2001, 7 làng nghề thêu ren của xã mới sản xuất được
97.600 bộ hàng thêu và 13.500 m


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status