Định tội danh đối với tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự việt nam ( trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh nam định) - Pdf 30


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI TH NHUNG

ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI HủY HOạI HOặC Cố ý
LàM HƯ HỏNG TàI SảN THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định)

LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Nhung
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI

(2009 - 2014) 45
2.2.3. Tình hình thụ lý, xét xử phúc thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của TAND hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) 50
2.2.4. Tình hình thụ lý, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản của TAND tỉnh Nam Định trong thời
gian từ năm (2009 - 2014) 51
2.2.5. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2014 52
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên địa bàn tỉnh Nam Định 57
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế 57
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 58
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM
HƯ HỎNG TÀI SẢN 62
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 66
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trong BLHS năm 1999 67
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 70
3.3. Một số giải pháp nâng cáo hiệu quả của việc định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản 71
3.3.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán 71
3.3.2. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để đảm bảo hoạt
động áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử 73

Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1:

Thống kê tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm
2009 - 2014 43
Bảng 2.2:

Số kết quả khảo sát thu thập số liệu về tình hình thụ lý,
giải quyết theo trình tự sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản được xét xử sơ thẩm của Tòa án hai
cấp tỉnh Nam Định trong những năm gần đây 45
Bảng 2.3:

Tình hình xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) về tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và các tội xâm phạm sở
hữu khác 46
Bảng 2.4:

So sánh tỉ lệ số vụ án, số bị cáo xét xử sơ thẩm, của các
tội xâm phạm sở hữu với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam
Định từ năm (2009 - 2014) 49
Bảng 2.5:

Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân
dân tỉnh Nam Định 51
Bảng 2.6:


Công dân không làm tròn nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm,
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, cho nên các cơ quan
bảo vệ pháp luật phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, khám phá vụ án.
Việc một số công dân không thực hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác
hành vi phạm tội, có nghĩa là họ không tham gia đấu tranh chống tội phạm
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức và trong các trường hợp do pháp luật hình sự quy định. Thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, đã đặt ra
nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết
như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng, nguyên nhân, điều

2
kiện của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Về mặt lý luận, xung
quanh vấn đề đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
"Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung "sớm hoàn thiện hệ thống
pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù…” [11, tr.3]. Đặc
biệt, trong quá trình giải quyết có nhiều vụ án không xác định đúng tội danh, đã
khởi tố sai tội danh, dẫn đến việc phải ra quyết định thay đổi tội danh, hoặc
quyết định hình phạt không đúng hoặc phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì
thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt
đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống

danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại, phổ biến nhất là ở
các tội xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt.
Do vậy, việc xác định đúng tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản để khi quyết định hình phạt nhằm trừng trị đồng thời giáo dục
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, không bỏ lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội là vấn đề vô cùng quan trọng. Xuất phát từ tính
cấp thiết nêu trên tôi lựa chọn đề tài "Định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định" để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ luật học.

4
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc định tội danh đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đã được một số nhà khoa học và cán
bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học.
Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài
viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về những vấn đề
này. Cụ thể như sau:
Về tài liệu nghiên cứu là sách giáo trình, sách chuyên khảo, gồm có:
“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm)” của GS.TSKH Lê
Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007; “Định tội danh - Lý luận, lời
giải mẫu và 500 bài tập thực hành” của GS.TSKH Lê Cảm và PGS.TS Trịnh
Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; “Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự - Phần các tội phạm”, tập II của Đinh Văn Quế, năm 2005; “Các tội
xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009)” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2010, Hà Nội;
“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của GS.TS Võ Khánh
Vinh, Nxb Công an nhân dân năm 2001; “Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ
luật hình sự - Phần các tội phạm”, cuả ThS Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ

(2001), "Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo
Luật hình sự Việt Nam", Nhà nước và Pháp luật . Trịnh Tiến Việt (2001),
"Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự năm 1999",
Pháp lý. Võ Khánh Vinh (2003), "Thay đổi định tội danh, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, các công trình đã nêu trên chỉ nghiên cứu riêng rẽ qua việc
tranh luận tội danh để áp dụng giữa tội phạm này với tội phạm khác hay chỉ
đề cập phân tích chung trong các chương giáo trình, sách tham khảo, khóa
luận tốt nghiệp mà chưa có một công trình khoa học nào ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ giải quyết riêng rẽ và độc lập một tội phạm cụ thể, việc định tội

6
danh tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Nam Định để qua đó đưa ra những giải pháp định tội danh, cũng như
để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định trong việc phòng,
chống tội phạm này trong thực tiễn. Tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học thực
tiễn của luận văn hoàn toàn có tính thời sự, nhất là trong giai đoạn hiện nay
tình hình các loại tội phạm nói chung diễn biến phức tạp, hành vi thực hiện tội
phạm ngày càng tinh vi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp, tôi mong muốn đưa ra cái nhìn
tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với việc định tội danh đối
với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Nam Định. Từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, tồn tại và đưa ra giải
pháp góp phần hoàn thiện về "Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản", nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến
hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn làm rõ một số vấn đề sau đây:

Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những việc tiến hành tố tụng của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong việc định tội danh về
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh
Nam Định; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Nam Định về
tội phạm này.
Phương pháp luận của luận văn là dựa trên chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp

8
quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp
được thể hiện trong các nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, X và các nghị
quyết số 08 - NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù như: phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch và quan trọng
hơn cả là phương pháp loại trừ.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp trong của luận văn có ý nghĩa
nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng. Thông qua kết quả
nghiên cứu và những giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của
mình vào việc phát triển lý luận về định tội danh giúp việc điều tra, truy tố,
xét xử các loại tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản nói riêng được chính xác, tránh truy tố, xét xử oan và tránh bỏ lọt người
phạm tội, giúp cho hoạt động của các cơ quan tư pháp có hiệu quả góp phần
hữu hiệu vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

- Bên cạnh đó theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm cho rằng:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính
logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được
tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và
kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.33].

10
- Còn theo quan điểm của PGS.TS. Dương Tuyết Miên:
Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và
một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để
xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là
tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá
trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [15, tr. 9].
Tổng hợp các quan điểm trên đây, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy phạm pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến việc định tội danh ở Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa khoa học khái
niệm định tội danh như sau: Định tội danh có thể được hiểu là một quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự
và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm
tra nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu
thành tội phạm cụ thể, tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.21].
Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một loại tội phạm
cụ thể được quy định tại Điều 143 BLHS Việt Nam. Một người được coi là

trong phần các tội phạm của BLHS này hay không. Trên cơ sở đó, đưa ra sự
đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho
xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, pháp luật không thể phản ánh được
hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ
ghi nhận những nét khái quát, phổ biến đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng
cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Tính chất khái quát và phổ biến

12
của quy phạm pháp luật và yêu cầu phải áp dụng nó một cách cụ thể là hai
mặt của một sự thống nhất biện chứng, đòi hỏi phải có sự nhận thức và phán
ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập
pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt
động áp dụng pháp luật.
Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của CTTP
với các dấu hiệu pháp lý của CTTP được xác định là tương ứng và phù hợp
với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm đã xảy ra có phải là
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không và người phạm tội đã
phạm vào tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, đồng thời
buộc họ chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản mà họ đã thực hiện.
Thứ hai, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản còn được hiểu là một hình thức hoạt động tiến hành tố tụng được tiến
hành bởi cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà
án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền để cụ thể hóa các quy phạm pháp
luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm
pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào
đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là hành vi
được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không.

đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cần làm rõ những vấn đề
cơ bản sau:
Định tội danh theo khách thể của tội phạm
Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm
Định tội danh theo chủ thể của tội phạm
Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm

14
1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Căn cứ vào chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, Khoa học
Luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: Định tội danh chính thức
và định tội danh không chính thức [4, tr.23]. Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản có thể phân chia thành hai dạng định tội danh tương ứng
là định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức
1.1.3.1. Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
“Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất
pháp lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước
ủy quyền thực hiện” [4, tr.23].
Do đó định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản có các đặc điểm cơ bản như sau:
- Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản do các chủ thể được nhà nước ủy quyền thực hiện, do đó chủ thể của
dạng định tội danh này nhất thiết phải là người có thẩm quyền trực tiếp tiến
hành tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể đó là cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Theo quy định tại điều 33 BLHS năm 1999 thì, các
cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án;
Những người tiến hành tố tụng gồm có: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan
điều tra, điều tra viên, Viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát

làm hư hỏng tài sản do nhiều chủ thể tiến hành và trong rất nhiều các giai
đoạn tố tụng khác nhau nhưng không có nghĩa là đối tượng phải gánh chịu
hậu quả của hoạt động định tội danh đó là người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản. Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định “không ai bị coi là

16
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật” [23, tr.12].
Khoản 1 điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Điều 102 Hiến pháp 2013 cũng khẳng định: "Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp" [25]. Như vậy, Hiến pháp đã khẳng định chức năng xét xử (định tội
danh) chỉ thuộc về Tòa án chứ không thuộc bất kỳ cơ quan nhà nước nào khác.
Trong quá trình xét xử công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để khẳng
định một người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì Tòa án sẽ
ra bản án kết tội. Trong trường hợp bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng
nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản
án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải xét xử theo thủ tục
phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hội đồng xét
xử tuyên án. Như vậy bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án là
văn bản định tội danh cuối cùng khẳng định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản đối với hành vi phạm tội đã xảy ra.
1.1.3.2. Định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản.
Theo quan điểm của GS - TSKH Lê Cảm thì “Định tội danh không
chính thức là sự đánh giá không phải về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình
sự của một hành vi phạm tội cụ thể” [4, tr.24].

hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản được dư luận xã hội quan tâm nhất là trong trường hợp nó đối
lập với kết quả của hoạt động định tội danh chính thức và phản ánh đúng yêu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status