Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền và vài vấn đề đặt ra trong việc đổi mới quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam xã hội chủ nghĩa - Pdf 31

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG THỊ DIỆU THUÝ

ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC ĐỔI MỚI QUY TRÌNH
LẬP PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG THỊ DIỆU THUÝ
ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC ĐỔI MỚI QUY TRÌNH
LẬP PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
 Mã số: 60101

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hoàng Thị Kim Quế


1.3.2. Pháp luật phải bảo đảm tính dân chủ ........................................... 29
1.3.3. Pháp luật phải bảo đảm tính khách quan ..................................... 31
1.3.4. Tính nhân đạo, công bằng của pháp luật...................................... 33
1.3.5. Tính tối cao của đạo luật trong hệ thống văn bản pháp luật và
nguyên tắc pháp chế trong Nhà nước pháp quyền ................................. 35

3


1.3.5.1. Bảo đảm tính tối cao của các đạo luật trong hệ thống văn bản
pháp luật ............................................................................................... 35
1.3.5.2. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế .................................................. 37
1.3.6. Tính minh bạch, công khai của pháp luật .................................... 38
Chƣơng 2: Thực trạng khung pháp luật của Việt Nam hiện nay và sự cần thiết
đổi mới quy trình lập pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ........................................................................ 41

2.1. Thực trạng khung pháp luật tại Việt Nam hiện nay ..............................41
2.1.1. Thành tựu .................................................................................... 41
2.1.2. Hạn chế và tồn tại ....................................................................... 45
2.1.2.1. Về tính toàn diện, thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật ............................................................................................... 45
2.1.2.2. Về tính khả thi.......................................................................... 47
2.1.2.3. Về tính khách quan .................................................................. 49
2.1.2.4. Về tính minh bạch .................................................................... 50
2.1.2.5. Về việc phát huy hiệu lực các văn bản pháp luật ...................... 51
2.1.3. Nguyên nhân ............................................................................... 52
2.2. Sự cần thiết phải đổi mới quy trình lập pháp ........................................53
2.2.1. Quy trình lập pháp ...................................................................... 53
2.2.1.1. Mối quan hệ giữa quy trình lập pháp và chất lượng công tác xây

3.2.3.2. Tài liệu gửi xin ý kiến .............................................................. 87
3.2.3.3. Về việc tập hợp, tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu ....................... 87
3.2.3.4. Việc phản hồi ........................................................................... 87
3.2.3.5. Vấn đề kết hợp việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, đại biểu Quốc
hội và Đoàn đại biểu Quốc hội .............................................................. 88
3.2.4. Nâng cao vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ
đạo việc tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh ................................. 89
3.2.5. Hoàn thiện quy trình thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội ............ 91
3.2.5.1. Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Chủ toạ phiên họp
Quốc hội. .............................................................................................. 92
3.2.5.2. Quy định về hình thức phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội ....... 92
3.2.5.3. Hoàn thiện quy định về thủ tục biểu quyết những nội dung cơ
bản của dự án luật trong lần trình thứ nhất ............................................ 94
3.2.5.4. Hoàn thiện công tác giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo ......... 94
3.2.6. Đổi mới hoạt động công bố luật, pháp lệnh ................................. 95

5


3.2.7. Tăng cường công tác nghiên cứu, thông tin phục vụ đại biểu Quốc
hội và các cơ quan của Quốc hội ........................................................... 96
3.2.8. Quy định về trình tự xây dựng dự án luật, pháp lệnh theo trình tự
rút gọn .................................................................................................. 97
Kết luận .............................................................................................. 100
Tài liệu tham khảo .............................................................................. 102

6


MỞ ĐẦU

vụ quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới không ngừng được tăng cường. Quy
trình xây dựng pháp luật đã được chính quy hoá bằng việc Quốc hội ban hành
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và được tiếp tục nghiên
cứu đổi mới một bước bằng việc Quốc hội quyết định sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002. Do vậy, chất
lượng hoạt động lập pháp đã được nâng lên một bước.
Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật ở nước ta còn nhiều tồn tại và
bất cập; hệ thống pháp luật hiện hành còn chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội của đất nước kể cả về số lượng và chất
lượng; còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, thậm chí có nội dung còn chồng
chéo, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của thực tiễn, nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội vẫn còn thiếu luật để điều chỉnh.
Để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động lập
pháp của Quốc hội, phấn đấu đến năm 2020, cùng với việc hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì Nhà nước ta sẽ có một hệ
thống luật tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi (Uỷ ban
thường vụ Quốc hội không còn phải ban hành pháp lệnh), đáp ứng yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc tiếp tục đổi mới hoạt động xây
dựng pháp luật đang được đặt ra nhu một nhu cầu bức thiết. Vì vậy, việc
nghiên cứu về đặc điểm của pháp luật của Nhà nước pháp quyền và một số
vấn đề đặt ra trong việc đổi mới quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính thời sự và
có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nói riêng.

8



4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền và yêu cầu đổi mới
quy trình lập pháp để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề đang được rất nhiều học giả quan tâm và
nghiên cứu. Hiện nay, đã có nhiều cuộc hội thảo về đề tài này như Hội thảo về
xây dựng Nhà nước pháp quyền do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp tổ chức tại Hà Nội, tháng 6 năm 1992; Hội thảo đổi mới quy trình xây
dựng luật, pháp lệnh tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2004 do Ban
công tác lập pháp phối hợp với dự án cải cách pháp luật do Chính phủ Đan
Mạch tài trợ tổ chức; cuốn sách về quy trình lập pháp của một số quốc gia
trên thế giới do Ban công tác lập pháp phối hợp với dự án cải cách pháp luật
do Chính phủ Đan Mạch tài trợ biên soạn; cuốn sách về đổi mới và hoàn thiện
quy trình lập pháp của Quốc hội do Văn phòng Quốc hội chủ biên. Ngoài ra
còn có một số bài viết về đề tài này như Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Nguyễn
Văn Yểu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2002; Tính minh bạch của pháp
luật - một thuộc tính của Nhà nước pháp quyền, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 1/2002, Đặc điểm của pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền, PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 4/2002, Xây dựng nhà nước pháp quyền từ lý luận đến thực tiễn,
PGS.TS. Hoàng Thế Liên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1/2004; Nhận
diện Nhà nước pháp quyền, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 5/2004...

10


Tuy nhiên, đó chủ yếu là những bài viết, công trình nghiên cứu độc lập,
hoặc là về Nhà nước pháp quyền, đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền, hoặc là về việc đổi mới quy trình lập pháp. Trong khuôn khổ

11


Chƣơng 2. Thực trạng khung pháp luật của Việt Nam hiện nay và sự
cần thiết đổi mới quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
2.1.

Thực trạng khung pháp luật của Việt Nam hiện nay

2.2.

Sự cần thiết đổi mới quy trình lập pháp

Chƣơng 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm đổi mới quy trình
lập pháp
3.1.

Đổi mới quy trình lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

3.2.

Đổi mới công tác xây dựng dự án luật, pháp lệnh

3.2.1. Đổi mới công tác soạn thảo dự án luật, pháp lệnh
3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm tra của cơ quan thẩm tra
3.2.3. Phát huy trí tuệ và quyền làm chủ của nhân dân trong việc
tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo luật, pháp lệnh
3.2.4. Nâng cao vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc
chỉ đạo việc tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh

Ở phương Đông

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại diễn ra cuộc đấu
tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị nước, an dân bằng cách thức nào, dùng
pháp luật hay đạo đức, lễ nhạc...
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập lúc đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị”
hoàn toàn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của tư

13


tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao quát,
vừa là sự cụ thể hoá, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính
danh” nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội.
Theo Mạnh Tử, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải
hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm
quyền vào nhân dân.
Tuân Tử đã kết hợp “lễ trị với luật” để trị nước. Có thể coi đây là chiếc
cầu nối giữa tư tưởng nhân - lễ trị của Khổng - Mạnh và tư tưởng pháp trị sau
này.
Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đến đỉnh cao, coi pháp
luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời
cuộc, “thời biến, pháp biến”. Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử cũng không
phủ nhận hoàn toàn vai trò của pháp luật nhưng quan niệm và cách thức vận
dụng pháp luật khác nhiều so với Hàn Phi Tử. Cùng là dùng hình luật để cai
trị nhưng Pháp gia khác với Nho gia. Pháp gia thì xem việc dùng hình phạt dù
nặng hay nhẹ đều là việc hiển nhiên, còn Nho gia khi dùng đến hình phạt cho
rằng đó là phương tiện mà không phải là mục đích.
Như vậy, các nhà tư tưởng phương Đông ít bàn luận về Nhà nước, pháp
luật hơn mà chủ yếu quan tâm đến đường lối, phương thức cai trị con người

cầm quyền chỉ là những nô lệ của pháp luật thì ở đó có sự cứu thoát của Nhà
nước. Platon đã đưa ra một định đề nổi tiếng như sau: cầm quyền bởi một con
người - đó là chính quyền chuyên chế; bởi một bộ phận người tốt - đó là chính
quyền quý tộc; bởi những công dân tự do thành thị - đó là dân chủ.
Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho
rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản
Hoàng Thị Kim Quế, Tư tưởng Đông, Tây về Nhà nước và pháp luật, những nhân tố nhà nước pháp quyền,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 (3/2002)
2

15


của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về
chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc
cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống
trị bằng bạo lực.
Xixeron (106 - 44 TCN) nêu nguyên tắc tối cao của pháp luật trong đời
sống nhà nước bằng quan niệm cho rằng Nhà nước là gì nếu không phải là trật
tự chung. Theo ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước và Nhà
nước là Nhà nước pháp quyền không phải vì Nhà nước tuân thủ pháp luật của
mình mà là vì về cội nguồn, về bản chất, Nhà nước chính là pháp luật - pháp
luật tự nhiên của nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền
dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ
cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối
với các quan hệ xã hội, bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật.
1.1.1.2. Học thuyết về Nhà nước pháp quyền
Tư tưởng của các nhà triết học, chính trị học và luật học cổ đại về Nhà

- Bảo đảm tính độc lập của cơ quan tư pháp trên cơ sở chỉ tuân theo
pháp luật, không bị can thiệp từ phía các cơ quan và cá nhân khác.
Các nhà triết học tư sản cũng cho rằng, trong mối tương quan giữa Nhà
nước và pháp luật, Nhà nước phải đứng dưới pháp luật, tuân theo pháp luật
mặc dù Nhà nước ban hành ra pháp luật bởi vì có một thứ pháp luật khách
quan mà tinh thần của nó thì Nhà nước và pháp luật thực định do Nhà nước
ban hành cần phải tuân thủ, đó là pháp luật tự nhiên. Pháp luật tự nhiên có
trước Nhà nước, đứng trên mọi Nhà nước, được lý trí công nhận, giữ vai trò
lãnh đạo cuộc sống và điều chỉnh hành vi của con người. Do vậy, có thể nói

17


học thuyết Nhà nước pháp quyền đã đứng trên thế giới quan triết học pháp
quyền để xác định bản chất và chân lý của pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền
Trong quá trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền, có ý kiến cho
rằng, điều quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc phân
công rành mạch giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ý
kiến khác cho rằng bản chất của Nhà nước pháp quyền nằm ở việc ghi nhận,
đề cao và bảo vệ quyền con người. Cũng có ý kiến lại nhấn mạnh Nhà nước
pháp quyền là Nhà nước mà trong đó, mọi chủ thể, kể cả Nhà nước đều tuân
thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính pháp lý
cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của
con người.
Có thể nói, những nội dung trên đây đều là những tiêu chí quan trọng
để xác định bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ có một
trong những tiêu chí đó, không thể có được khái niệm về Nhà nước pháp
quyền hoàn chỉnh. Nhà nước pháp quyền rất cần được tổ chức một cách khoa
học, hợp lý, nhưng nếu nhà nước đó không có một hệ thống pháp luật hoàn

luật của nhà nước pháp quyền là dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật đầy
đủ, đồng bộ, thống nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh nguyện vọng và ý
chí của nhân dân, là chuẩn mực của dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo.
- Quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước.
Mục tiêu cao nhất của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do,
dân chủ của con người. Vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là
phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con

19


người, đồng thời cũng quy định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và
trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó.
Để hiện thực hoá các quy định này của pháp luật, Nhà nước pháp quyền
phải nêu cao vị trí độc lập và hiệu quả hoạt động của các Toà án. Tính độc lập
của các Toà án phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt thì cơ quan này mới
thực sự xứng đáng là nơi phán xét và giải quyết mọi tranh chấp, mâu thuẫn
trong xã hội, mới bảo đảm được sự công minh của pháp luật và sự bình đẳng
của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình tố tụng.
Như vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền là xây dựng Nhà nước với lý
tưởng dân chủ, nhân đạo và công bằng, là Nhà nước mà nhân dân nói chung
cũng như mọi công dân nói riêng không chỉ là khách thể của quyền lực mà
còn là chủ thể, hơn nữa, là chủ thể tối cao3.
1.1.2. Một số nét đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa
1.1.2.1. Mục đích của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo
đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con người
Xét về bản chất, Nhà nước ta thực sự là một Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân"

Đây chính là những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp, bảo
đảm cho mọi người dân thực hiện được quyền làm chủ của mình.
1.1.2.2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và

21


tư pháp là một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản là "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân", ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, đồng thời có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cơ cấu của quyền lực nhà
nước, trong đó:
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan có quyền
lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước;
- Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người thống lĩnh các lực
lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh, có
những thẩm quyền nhất định liên quan trực tiếp đến các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp;
- Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất, thống nhất điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước;
- Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

sách xã.
1.1.2.4. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

4 4

Nguyễn Văn Yểu, Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Đảng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2002.

23


Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân là bản chất, là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà
nước ta. Tuy nhiên, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự, dân chủ được
thể chế hoá thành pháp luật và thực thi trong khuôn khổ pháp luật5.
Việc phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật là một vấn đề rất quan trọng, theo đó:
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời phải coi trọng giáo
dục nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa cho mọi công dân, kết hợp biện pháp
hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí, kết hợp sức mạnh của
pháp luật với sức mạnh của quần chúng nhân dân;
- Bản thân Nhà nước ban hành ra pháp luật nhưng cũng phải được tổ
chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật;
- Cần phải tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước, của
các đoàn thể, tổ chức xã hội và của nhân dân; đổi mới và hoàn thiện thể chế,
tổ chức và phương thức kiểm tra, giám sát theo nguyên tắc bình đẳng, dân
chủ, công minh. Đây chính là biểu hiện của tính chất dân chủ rộng rãi của
Nhà nước ta.
1.1.2.5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện ở các phương

quyền nói chung.
Trong một thời gian dài đã tồn tại quan niệm không đúng về mối quan
hệ giữa Nhà nước và pháp luật. Quan niệm đó xuất phát từ việc tuyệt đối hóa
quyền lực cưỡng chế của Nhà nước và xem thường tính điều chỉnh tự nhiên,
khách quan của pháp luật đối với đời sống xã hội, hệ quả là tư duy ”pháp lụât
phải phục tùng Nhà nước”, ”pháp luật chỉ là công cụ, biện pháp của việc
quản lý nhà nước đối với xã hội” trở thành phổ biến. Điều này dẫn đến hậu
quả là các đạo luật có khi ghi nhận sự tuỳ tiện và việc vi phạm pháp chế của

25


Trích đoạn Về tính khách quan Về tính minh bạch Nguyên nhân Mối quan hệ giữa quy trình lập pháp và chất lượng công tác xây Khái niệm quy trình lập pháp
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status