Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam khi gia nhập WTO - Pdf 31

§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
A . LỜI MỞ ĐẦU
Sau một năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh
tế Việt Nam đã chứng kiến những chuyển biến rất tích cực : tăng trưởng kinh
tế đạt 8,5%, mức tăng cao nhất trong 10 năm qua.Trong quá trình hội nhập,
năng lực cạnh tranh của Việt Nam cũng như của các doanh nghiệp đã và đang
được nâng lên. Trong đó khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) giữ
một vị trí vô cùng quan trọng và đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế,
vào nguồn thu ngân sách quốc gia và chi phối hầu hết các hoạt động phân
phối (bán lẻ) của cả nước. Hiện cả nước có gần 200.000 DN và theo dự kiến
sẽ thành lập thêm 320.000 DN mới để đưa tổng số lên khoảng 500.000 DN
vào năm 2010. Trong số 320.000 DN mới sẽ thành lập, số lao động thu hút
trong các DN nhỏ và vừa có thể lên đến 2,7 triệu người. Tuy nhiên hạn chế
lớn nhất của các DN này là sức cạnh tranh còn yếu. Nghị định số
90/2001/NĐ-CP đã khẳng định : “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một
nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước khuyến khích và tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao
năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng
các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất, kinh doanh,
tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.”
Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để đưa đất nước hội
nhập, một mốc quan trọng nhưng không phải điểm mốc cuối cùng. WTO mở
ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế nước ta cũng như mỗi DN thu hút thêm
sức mạnh để tăng cường năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững.
1
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
Mỗi DN cần nhận rõ các cơ hội, tận dụng mọi khả năng từ nhiều phía, trong
nước và ngoài nước có lợi cho mình, cũng như những khó khăn và thách thức
từ quá trình hội nhập. Xuất phát từ tình hình các DN nói chung và từ các

Nhà nước theo định hướng XHCN thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất hiện và
len lỏi vào từng bước đi của Doanh nghiệp. Cạnh tranh vốn là một quy luật tự
nhiên và khách quan của nền kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy sản xuất,
lưu thông hàng hoá phát triển. Đối với nền kinh tế thị trường, các khái niệm
liên quan tới cạnh tranh còn rất khác nhau.
Theo C.Mác “ Cạnh tranh là sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt
được những lợi nhuận siêu ngạch”, có các quan niệm khác lại cho rằng “ cạnh
tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình
sao cho tốt hơn các Doanh nghiệp khác ”.
Theo kinh tế chính trị học: “ Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối
thử nhằm giành giật thị trường khách hàng cho Doanh nghiệp mình”. Trong nền
kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là : “sự ganh đua giữa các Doanh nghiệp
trên thị trường nhằm giành giật được ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm
hàng hoá dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.”
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất đó
3
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với
nhau, kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay
thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận.
1.2. Vai trò của cạnh tranh.
Cạnh tranh có vai trò đặc biệt không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn
cả người tiêu dùng và nền kinh tế :
- Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu.
- Khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
- Thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
- Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu
quả kinh tế.
- Làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống nhưng chất lượng lại

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm : Khả năng cạnh tranh của sản
phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên thị trường .
2.3 Những nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh của bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng phải chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau :
+Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố sau :
* Các nhân tố về mặt kinh tế.
* Các nhân tố về chính trị, luật pháp.
* Các nhân tố về khoa học – công nghệ.
* Các yếu tố về văn hoá-xã hội.
* Các yếu tố tự nhiên.
+Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường phức tạp nhất và ảnh hưởng nhiều nhất
đến cạnh tranh. Sự thay đổi thường diễn ra thường xuyên khó dự báo được và
5
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
phụ thuộc vào các lực lượng sau đây :
- Sức ép của đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành : Khi trong ngành kinh
doanh của doanh nghiệp có số lượng đông đối thủ cạnh tranh hoặc có nhiều
đối thủ thống lĩnh thị trường thì cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn.
- Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường
- Sức ép của nhà cung ứng :
- Sức ép của khách hàng :.
- Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế : Khi trên thị trường xuất hiện thêm
sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất tất yếu sẽ giảm khả năng tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp trên thị tưrờng.
+Nhân tố bên trong doanh nghiệp.

* Thị phần của doanh nghiệp : Chỉ tiêu này được đo bằng tỷ lệ phần trăm
doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành. Chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao và ngược lại.
* Doanh thu : Dựa vào doanh thu có thể đánh giá được khả năng tiêu thụ
của doanh nghiệp là tốt hay không tốt. Để sử dụng được chỉ tiêu này thì doanh
nghiệp có thể chọn từ 3 đến 5 đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành để
đưa ra so sánh và kết luận.
* Tỷ suất lợi nhuận : Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản
ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng thể hiện tính hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Quy mô về vốn : Một doanh nghiệp có tổng vốn kinh doanh lớn sẽ có khả
năng cạnh tranh cao hơn do có điều kiện mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
* Năng suất lao động: Được đo bằng giá trị sản lượng / một công nhân.
Năng suất lao động càng cao phản ánh doanh nghiệp càng có khả năng giảm
chi phí, hạ giá thành, do đó có khả năng cạnh tranh càng cao trên thị trường.
* Giá thành sản xuất : Phản ánh khả năng cạnh tranh về giá của doanh
nghiệp. Giá thành sản xuất càng thấp, giá bán càng giảm, do đó sẽ tăng khả
7
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu định tính .
* An toàn trong kinh doanh : Chỉ tiêu chủ yếu về an toàn trong kinh
doanh là đưa dạng hoá đầu tư và sản phẩm với kết quả cuối cùng là bảo đảm
và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao
phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
* Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường: Các doanh nghiệp phải xây
dựng nhãn hiệu riêng của mình và khi đọc đến tên nhãn hiệu người tiêu dùng
trên toàn thế giới có thể phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức
phục vụ của sản phẩm này như thế nào so với các sản phẩm khác
II. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.

định, giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội.
Thứ hai, DN huy động triệt để các nguồn lực để phát triển kinh tế bao gồm
vốn, công nghệ, tài nguyên, con người... tạo điều kiện sử dụng tài nguyên sẵn
có, nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư để đầu tư tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế.
Thứ ba, cung cấp hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
Thứ tư, góp phần gia tăng nguồn hàng xuất nhập khẩu, tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, nguồn thu ngoại tệ, tạo tiền đề cho sự phát triền của đất
nước.
2. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả
mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh
hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp,
9
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu
và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào thị
trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn (do quy mô
doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, những khoảng
trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng vì
mối quan tâm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp
vừa và nhỏ là loại hình sản xuất có địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ
máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:
Thứ nhất, cần ít vốn, chi phí quản lý, đào tạo không lớn, thường hướng
vào những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, những sản phẩm có sức mua
cao, dung lượng thị trường lớn, nên huy động được các nguồn lực xã hội, các
nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân.
Thứ hai, có thể sử dụng các loại máy móc, thiết bị sản xuất trong nước, dễ
dàng thay đổi công nghệ, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều

- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trường các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập và
mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh
nghiệp đó đang hoạt động.
- Cũng do tính chất vừa và nhỏ của nó, DNVVN gặp khó khăn trong thiết
lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường
III. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
11
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
1. Gia nhập WTO cơ hội và thách thức :
Trên cơ sở những thành tựu đạt được sau gần 10 năm đổi mới, năm 1995
nước ta chính thức làm đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Nhận
thức rõ “toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia” (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII tại Đại hội toàn quốc của Đảng tháng 4 năm 2001) và thực hiện Nghị
quyết 07 của Bộ Chính trị khoá VIII về hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã
nỗ lực hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm hình thành đồng bộ các yếu tố của
kinh tế thị trường, kiên trì đàm phán trên cả 2 kênh song phương (mở cửa thị
trường) và đa phương (thực hiện các hiệp định của Tổ chức thương mại thế
giới). Ngày 7/11/2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị
định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Sự kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả
những thách thức cần phải vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào tổ chức
thương mại lớn nhất toàn cầu.
Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những
cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước
thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ

đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo
điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương
châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO
mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, những
thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất
nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính
quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên
13
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản
phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không
chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu
phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4%
trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh
không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh
nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch
định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu
hút đầu tư từ bên ngoài. Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức
cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không
đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở
mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá;
nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng
lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách
phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ
trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực

- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi
hơn để phát triển. Thật vậy, năm 2000, Luật Doanh nghiệp ra đời, được sửa
đổi bổ sung vào năm 2005 (thực chất là luật dành cho kinh tế tư nhân). Từ đó
đến nay, dưới sức ép của tiến trình gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam cũng
đã ban hành nhiều nghị định mang tính pháp lý dành riêng cho sự hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
- Hội nhập WTO tạo môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Nhìn lại thời kỳ bao
cấp, quản lý nền kinh tế theo phương thức kế hoạch hóa tập trung, khu vực
kinh tế tư nhân không những không có luật chính thức để điều tiết sự hoạt
15
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
động, mà còn bị sự "kỳ thị" của xã hội. Đến nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thuộc khu vực kinh tế tư nhân được hoạt động bình đẳng trong một môi trường
pháp lý chung: kể từ năm 2006 các khu vực kinh tế của Việt Nam, không kể
quy mô đều chịu sự điều tiết chung của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các
Bộ luật về thuế... Ngoài ra, vai trò của doanh nghiệp tư nhân ngày càng được
nâng cao, doanh nhân làm ăn có hiệu quả, thành đạt được xã hội coi trọng.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị
trường thế giới. Từ năm 2002 trở lại đây, mọi doanh nghiệp không phân biệt
thành phần kinh tế, kể cả hộ cá thể có đăng ký kinh doanh hợp pháp đều có
quyền xuất - nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Các rào cản về giấy phép,
hạn ngạch xuất - nhập khẩu giảm rất nhiều; việc đi lại của các cá nhân Việt
Nam ra nước ngoài hết sức dễ dàng, khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị trường thế giới.
Môi trường kinh doanh minh bạch và công khai. Nếu trước đây các thông tin
về cơ chế chính sách, thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp chưa được công khai đầy đủ, thường thay đổi, khiến cho các
doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận không kịp thời, tốn
nhiều thời gian và tiền bạc thì nay từ trung ương đến địa phương, các cơ quan

các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi các doanh
nghiệp này chưa nhận diện rõ cơ hội và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế
và WTO mang lại, do vậy chưa xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh
phù hợp.
- Môi trường kinh doanh của Việt Nam đã cải thiện nhiều, nhưng chưa
nhanh, chưa thực sự mang tính cách mạng. Theo xếp hạng của "Doing
Business - 2007" - một tổ chức có uy tín, Việt Nam xếp hạng 104/175 nước
tham gia khảo sát, tụt 6 bậc so với năm 2006; ở hàng năng lực cạnh tranh tụt 3
bậc, đứng thứ 132 trên thế giới. Sự thay đổi cơ chế quản lý chưa đáp ứng yêu
cầu hội nhập WTO, do đó chưa tác động mạnh nhằm mang lại những thay đổi
17
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cho khu vực doanh nghiệp
vừa và nhỏ nói riêng.
Nguồn vốn đầu tư trong nước tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn
chế, điều kiện nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở vật chất rất thấp, khó có khả
năng hội nhập sâu rộng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt.
- Thiếu thông tin về thị trường, trình độ quản lý doanh nghiệp yếu. đưa số
các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có chiến lược kinh doanh, chưa xây dựng
chương trình hội nhập khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Theo số liệu khảo sát
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 50% số
giám đốc các công ty chưa tham gia các lớp đào tạo quản trị kinh doanh,
nhiều người trong số họ chưa tốt nghiệp phổ thông, trình độ tiếng Anh, sử
dụng công nghệ thông tin kém, khiến tỷ lệ doanh nghiệp bị đóng cửa khá cao,
bình quân trên 10%/năm.
Theo cam kết WTO, Việt Nam bỏ tài trợ trực tiếp đối với hoạt động xuất
khẩu, điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
khi tham gia xuất khẩu hàng hóa ra thị trường khu vực và thế giới. Những quy
định, chuẩn mực kinh doanh mới như: bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ; vấn
đề rào cản kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh quốc tế, quản lý tiêu chuẩn

bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả
ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng
góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp
ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất
nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và
nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối chính trị
hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích phát triển, còn
các DNVVN dưới hình thức sở hữu t nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại
hình DNVVN t nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trớc đại hội VIII. Điểm đáng
lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư nhân là
hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân buộc phải
quốc hữu hoá, DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích
phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác như : hình thức
hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
20
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước
ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau,
thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ
trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá
thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và
phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh
nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị
quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28,
29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình; Nghị định

thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng thị
trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN trong
khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực tư nhân
trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng lao động
trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội cũng
tăng nhanh. Quan niệm về kinh tế tư nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn
cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư tưởng giáo điều và tả
khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là tàn dư của chế
độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư nhân thực sự đã được coi là
“một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam”.
II. KHUNG PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CÁC DNVVN
Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển
22
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều năm trở lại đây,
Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao
nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình
kinh tế này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang
dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực :
Năm 2001
 Nghị định 90/2001/NÐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001, về trợ giúp phát
triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (là tuyên bố cấp cao đầu tiên được ban hành).
 Quyết định số: 193/2001/QÐ/-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng
Chính phủ, về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ
bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Năm 2002
 Thông tư số: 86 /2002/TT - BTC ngày 27 tháng 09 năm 2002 của Bộ

cho các doanh nghiệp .
 Thông tư số: 93/2004/TT-BTC ngày 29/09/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính,hướng dẫn một số nội dung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động
của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Năm 2005 :
 Thông báo số 144/2005/TB-BKH ngày 07/10/2005, Kết quả Phiên họp
Hội đồng khuyến khích phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa
 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế Triển khai Chương
trình Xúc tiến Thương mại Quốc gia 2006-2010 ngày 3 tháng 11 năm 2005 .
 Chỉ thị số: 40/2005/CT-TTg ngày 16/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ,
về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa .
Năm 2006 :
 Thông tư số: 01/2006/TT-NHNN ngày 20/02/2006 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo
lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
24
§Ò ¸n kinh tÕ th¬ng m¹i
 Quyết định số: 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 của Thủ tướng
Chính phủvề Phê duyệt Kế hoạch phát triển DNVVN 2005-2010.
Năm 2007 :
 Nghị định : 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 Quy đ ịnh chi tiết Luậ t
Thương m ại về hoạ t đ ộng mua bán hàng hoá và các hoạ t đ ộng liên quan trực
tiế p đ ến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vố n đ ầ u tư nư ớc ngoài tại
Việt Nam
 Nghị định : 87/2007/NĐ-CP ngày 28/05/2007 Ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
 Thông tư số : 9/2007/TT-BTM ngày 17/07/2007 hư ớng dẫn thi hành
Nghị đ ịnh số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007 quy đ ịnh chi tiết
Luậ t Thương m ại về hoạ t đ ộng mua bán hàng hóa và các hoạ t đ ộng liên quan
trực tiế p đ ến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vố n đ ầ u tư nư ớc ngoài


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status