Tiểu luận triết học: Nguyên tắc khách quan và sự vận dụng trong hoạt động nhận thức, thực tiễn - Pdf 31

Tiểu luận Triết học

Đề tài:
NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN VÀ SỰ
VẬN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC, THỰC TIỄN

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Nhóm 5

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNCS

: Chủ nghĩa cộng sản

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNH – HĐH

nghĩa Mác – Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng:
“Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Nhận thấy tầm quan trọng của việc nhận thức và vận dụng khách quan
để phát huy những thành tựu cũng như khắc phục, hạn chế những khó khăn
đang còn tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập, dưới sự hướng
dẫn nhiệt tình của cô giáo Lê Thị Hồng, chúng tôi – Nhóm 5 đã chọn nghiên
cứu đề tài: “Nguyên tắc khách quan và vận dụng trong hoạt động nhận thức,
thực tiễn”.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nội dung nguyên tắc khách quan và những ứng dụng
trong đời sống.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu nội dung và sự vận
dụng của nguyên tắc trong thời kỳ Cách mạng XHCN và trong quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
III. Kết cấu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo hai phần chính:
- Phần I: Lý luận chung về nguyên tắc khách quan
- Phần II: Vận dụng nguyên tắc khách quan trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn


thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất, trong đó bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,
sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên
quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ
có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện
vật chất cần thiết cho hành động.
Thứ hai, ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập
tương đối nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối
với vật chất là sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo
chủ động, là quá trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu
biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận
động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò
định hướng cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra
biện pháp lựa chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều
kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt
khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng : Một
là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức
phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật
khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức

mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
2. Nội dung nguyên tắc khách quan
Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sản
phẩm, là phản ánh thế giới khách quan, vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực
lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực, cụ thể như sau:
2.1. Trong hoạt động nhận thức
- Chống thái độ chủ quan duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách
quan, không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tuỳ tiện, phiến diện,
lấy ý muốn, nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương chính
sách; hậu quả là đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến
thất bại trong hoạt động thực tiễn.
- Cần khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao
năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ động ngồi
chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người
để cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người
bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng,
phát huy dân chủ rộng rãi….
2.2. Trong hoạt động thực tiễn
- Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ
sở cho mọi hành động của mình; không được lấy ý kiến chủ quan làm điểm

vật và hiện tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí nghiệm khoa học
để có được những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học đúng đắn.
Những kết quả nghiên cứu phải được kiểm tra, đối chiếu, so sánh và đánh giá
có phù hợp với hiện thực khách quan hay không. Nắm vững nguyên tắc khách
quan giúp người học hiểu được sự cần thiết phải quan sát thực tế một cách tỉ
mỉ, chính xác; phải xuất phát từ bản thân đối tượng, phải xem xét đối tượng
đúng như nó vốn có trong thực tế.
Bản thân các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không tồn tại
cô lập, tách rời, mà tồn tại trong những mối liên hệ hữu cơ với nhau. Hơn nữa,
những mối liên hệ ấy lại vô cùng phong phú, đa dạng và hết sức phức tạp, bao

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
gồm cả những mối liên hệ bản chất và không bản chất, tất nhiên và ngẫu
nhiên, chủ yếu và thứ yếu. Vì thế, khi nhận thức thế giới khách quan, tư duy
biện chứng đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc toàn diện. V.I.Lênin viết: "Muốn
thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó. Chúng ta không
thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xét
tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng
nhắc". Muốn nhận thức được khách quan thì cần phải xem xét vấn đề đặt ra
một cách toàn diện. Qua đó mới đánh giá đối tượng một cách chính xác, đầy
đủ, toàn vẹn; xem xét đối tượng như một chỉnh thể, hệ thống; tránh được lối
tư duy phiến diện, chiết trung, ngụy biện. Thực tế cho thấy, các hiện tượng
trong tự nhiên thường xảy ra rất phức tạp, do nhiều nguyên nhân gây ra và
biến đổi qua nhiều giai đoạn, nhưng nhiều khi ta chỉ quan sát được kết quả

tượng, cần phải tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển của chúng, chỉ ra mối
liên hệ nội tại của chúng, cũng như mối liên hệ giữa chúng với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nắm vững nguyên tắc lịch sử - cụ thể giúp cho người
học có thể xem xét, nghiên cứu đối tượng nhận thức gắn với những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể nhất định, biết vận dụng những học thuyết, những nguyên
lý, công thức một cách sáng tạo, tránh rơi vào các căn bệnh giáo điều, kinh
nghiệm, máy móc.
Tóm lại, muốn nhận thức thế giới một cách đầy đủ và khoa học, cần
vận dụng tốt cả bốn nguyên tắc, mà trong đó nguyên tắc khách quan là quan
trọng nhất.
1.2. Căn bệnh chủ quan duy ý chí
Với bản chất khoa học cách mạng và phê phán, phép biện chứng duy
vật, như Mác và Ăngghen đã khẳng định "không chịu khuất phục trước một
cái gì cả”. Trên một ý nghĩa nào đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối
lập với phép biện chứng duy tâm , mà nó còn là phương tiện chủ yếu để khắc
phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các
quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội.
Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua
hoạt động thực tiễn của con người và làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát
triển, do đó, chúng được coi là những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy
của phép biện chứng duy vật, việc đề cao vai trò của nó đối với việc khắc
phục những sai lầm trong tư duy càng trở nên có ý nghĩa hết sức to lớn.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy


Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý
luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm
mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một loại bệnh "ấu trĩ
tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách
lược cách mạng và sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính
sách và pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ
làm nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng
như lâu dài, hậu quả của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này,
V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vô sản, không sai lầm nào
nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan. Định ra
một sách lược vô sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị
thất bại".
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây
nên, những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể
được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu
của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) không nhận
thức được nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được
nguồn gốc sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận
thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai
lầm, theo chúng tôi, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo
thủ hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm
chủ quan, tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách
đổ lỗi cho người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan... Trong tình hình

kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển
đất nước.
1.3. Về bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến những
sai lầm trong phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn. Thực chất
của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh
nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những
vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh
nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức
khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một cách

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh nghiệm đó ở đâu? Về đại thể, đó
là sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của
địa phương này hay địa phương nọ, kinh nghiệm của nước này hay nước
khác, kinh nghiệm của các thế hệ trước… Tuy nhiên, trong số nguồn kinh
nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá kinh nghiệm bản thân.
Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng:
Thứ nhất, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục
bộ, chứ không phải là cái phổ biến và càng không phải là tri thức kinh nghiệm
phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc
của quá khứ chưa hẳn đã là những kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển
theo "quan điểm chọn lọc". Hơn nữa, những tri thức kinh nghiệm mới chỉ là

lịch sử xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên CNCS, là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Thông qua chính Đảng của mình là Đảng cộng sản Việt Nam
được lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp rèn luyện và dẫn dắt, hơn 70 năm qua,
giai cấp công nhân Việt Nam đã đảm nhận và thực hiện xuất sắc vai trò tiên
phong và lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân là lực
lượng nòng cốt trong liên minh công - nông - trí thức, cùng với các tầng lớp
nhân dân lao động anh dũng đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, giành được
thắng lợi vĩ đại trong cách mạng dân chủ nhân dân và những thành tựu rất
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện nổi bật nhất là
trong công cuộc đổi mới đất nước.
Ngoài ra, Việt Nam đã phát huy sáng tạo để tự vũ trang cho mình một
hệ thống lý luận làm nền tảng cho sự thắng lợi vĩ đại của những cuộc đấu
tranh ác liệt: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945 - 1954 và kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975. Đặc biệt,
Trên cơ sở khách quan chúng ta xác định phương pháp biện chứng duy vật
đang là chiếc kim chỉ nam dẫn đường cho người cộng sản Việt Nam, cho
nhân dân Việt Nam nhận thức tất yếu một cách tỉnh táo, nhận thức các hiện
tượng của hiện thực trong phát triển và trong sự tự vận động của chúng để
bước đi trên những chặng đường cách mạng mới một cách vững vàng, tự tin
và thích nghi nhanh với những biến đổi của thế giới trong mấy thập kỷ gần
đây; khi mà hầu hết các nước vốn thuộc phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ - sụp đổ
tới cả những nơi vốn được xem là chiếc nôi của chủ nghĩa cộng sản như Liên
Xô. Một điều hết sức thú vị là từ cuối năm 2006 – thời điểm nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với duy nhất một chính Đảng lãnh đạo là Đảng
Cộng sản Việt Nam theo con đường lý luận - triết học Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh – đã gia nhập WTO và vừa là chủ tịch vừa là nước chủ
nhà tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006; cùng hàng loạt những thắng lợi
mang tính vĩ mô trong 3 - 4 năm tiếp theo cho đến tận cuối thập kỷ thứ nhất

Nhóm 5

nghèo, chưa phát triển thì CNH – HĐH được xác định là con đường phát triển
tất yếu, khách quan để đi lên mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh".

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
- Điều kiện trong nước:
• Mục tiêu kinh tế - xã hội
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó (đặc biệt là mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô
cũ), nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và
dịch vụ quốc doanh được phát triển cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ
chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và
tập thể giữ vai trò quyết định, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở
cho phát triển. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta cùng sự giúp đỡ tận tình
của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát
huy được những tính ưu việt trong thời kỳ đầu xây dựng lại đất nước. Từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế
hoạch hóa, ta đã tập trung được một lực lượng vật chất quan trọng về cơ sở
vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền
vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền
biến tích cực về kinh tế, xã hội. Nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù
hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp trong bối cảnh đất nước khi đó là
vừa xây dựng XHCN ở miền Bắc, vừa góp sức cùng Miền Nam chiến đấu.

cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về
kinh tế. Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã
phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, đề ra
các định hướng và xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là đổi mới về kinh tế,
thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu… Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ
kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại
hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm
phát, thiếu việc làm, trong điều hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng…
Đặc biệt Đại hội cũng xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân
về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi
mới trong lĩnh vực chính trị”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã
đánh giá cao trong quá trình khắc phục khủng hoảng kinh tế, khắc phục nhiều

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
tồn tại trong 3 năm qua: lạm phát được đẩy lùi, tổng sản phẩm GDP tăng bình
quân 8,2% so với mức đề ra năm 1991-1995 là 5,5 - 5,6%, sản xuất nông
nghiệp tương đối toàn diện sản lượng 26%, so với 5 năm trước đó tạo điều
kiện thuận lợi để chính sách phát triển nhiều ngành. Vấn đề lương thực giải
quyết tốt, quan hệ đối ngoại mở rộng theo hướng đa dạng hoá, thị trường xuất
nhập khẩu mở rộng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, tăng kim ngạch
xuất nhập khẩu là 17 tỷ USD so kế hoạch là 12 - 15 tỷ USD. Khoa học công
nghệ có bước phát triển lớn phục vụ cho việc thực hiện đường lối chính sách

đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường, khả năng thu lợi nhuận
lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nền kinh tế và tham gia vào quan hệ kinh tế
quốc tế ở mức độ cao hơn.Từ đó, góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước phát
triển hơn nữa.
• Mục tiêu củng cố an ninh quốc phòng:
Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp CNH – HĐH ở nước
ta còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc
gia chi phối.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự
nghiệp bảo vệ, giữ gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình
phức tạp của bầu không khí chính trị hiện nay, các lực lượng phản động trong
nước và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát
triển kinh tế nói riêng và sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta nói chung.
Vì vậy chúng ta luôn phải tăng cường, củng cố, hiện đại hoá lực lượng quốc
phòng để nó trở thành lực lượng hùng mạnh, có khả năng bảo vệ vững chắc tổ
quốc XHCN, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Hiện đại hoá quốc phòng, tăng sức mạnh vật chất - kỹ thuật cho lực lượng vũ
trang, dành thế chủ động trong mọi biến động chính trị.. chỉ có thể thực hiện
được trên cơ sở một nền công nghiệp hiện đại và một nền kinh tế phát triển
mạnh vững chắc.
- Điều kiện quốc tế:
Xu thế cạnh tranh toàn cầu cũng đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với
con đường CNH – HĐH ở nước ta. Với sự tiến bộ như vũ bão của các ngành
khoa học công nghệ, nếu nước ta không nhanh chóng bắt tay vào thực hiện
CNH – HĐH thì sẽ dẫn đến nguy cơ bị tụt hậu rất nhiều so với không chỉ các
nước phát triển mà ngay cả các nước trong khu vực.

Nhóm 5

Lớp : 18G

quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng
hành động.

Nhóm 5

Lớp : 18G


Tiểu luận Triết học
* Mặt khác phải chống quan điểm duy ý chí:
V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan
của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí
áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý
chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói
chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng.
Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này " là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự
phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Để khắc
phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay
đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra
những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan,
trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh
mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách,
biện pháp kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không
đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Nói cách khác,
việc tìm hiểu bản thân phạm trù "quy luật", lịch sử nhận thức nó, cũng như
những vấn đề hiện đang được đặt ra xung quanh phạm trù ấy là bước đi không
thể thiếu được trong quá trình đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Và
điều đó càng được khẳng định thông qua sai lầm của Đảng ta trong giai đoạn
đầu xây dựng đất nước.

thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm
nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng
duy vật. Hậu quả là chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các nguồn lực dẫn
tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước:
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường
bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm
trọng cho nền kinh tế.
- Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế chỉ là trên lý
thuyết, giấy tờ.
- Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu
trong nước.
- Ngân sách thâm hụt nặng nề, vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng
tăng và không có khả năng cho chi trả.

Nhóm 5

Lớp : 18G



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status